Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Thuyết Pháp Từ Đức Dalai Dama Thứ 14

21 Tháng Sáu 201608:09(Xem: 8936)
Bài Thuyết Pháp Từ Đức Dalai Dama Thứ 14
Bài Thuyết Pháp Từ Đức Dalai Dama Thứ 14

Thích Liễu Nguyên thuật lại

Bai thuyet phap
Nhân Duyên
Một nhân duyên lớn nhân dịp chùa Điều Ngự tổ chức khánh thành chánh điện chùa, ban tổ chức HT.Thích Viên Lý đã mời Ngài Dalai Dama Thứ 14 giảng pháp cho đại chúng trong 2 ngày thứ 7 và Chủ Nhật ngày 18 và 19 tháng 06 năm 2016. Đây là một thiện duyên cho cộng đồng người Việt hải ngoại mà đặc biệt là người Việt tại Hoa Kỳ.
Theo tin tức thì mấy ngày trước Ngài đã có cuộc gặp với Tổng Thống Mỹ Brack Obama. Khoá Giảng vào ngày 18 là đúng 9 giờ sáng, mọi người muốn tham dự thì phải chuẩn bị đi từ rất sớm vì số người quá đông mà chỗ ngồi thì lại giới hạn, cộng thêm an ninh rất chặt chẽ để bảo vệ Ngài cùng tất cả mọi người.  Theo ước tính thì từ 10 ngàn người đến 15 ngàn người.
Đến Đúng Giờ
Cũng vì sợ trễ nên Liễu Nguyên đã dậy chuẩn bị từ rất sớm, 4 giờ sáng đã dậy chiên cơm ăn sáng và 6 giờ sáng thì bắt đầu xuất phát chùa từ Việt Nam Los Angeles về chùa Điều Ngự cùng đi có với HT. Thích Như Minh và hai Phật Tử: Đức Chân Châu và Anh Minh Nhật làm tài xế. Do sáng sớm thứ 7 đường Cali không kẹt xe nên đến được khá sớm, vào lúc 7 giờ 45 phút. Một điều rất ngạc nhiên là vào thời điểm đó số người đã tấp nập. Ai đi xe cá nhân điều phải đậu xe từ mấy lock đường cách đó rất xa, khoảng gần 2 km. Còn ai muốn đậu trong bãi xe cách xa đó thì xe ban tổ chức đón xe bus đưa đến 10 phút 1 lượt. Rất đông cảnh sát, an ninh làm việc để bảo vệ an toàn cho mọi người.

Thuyet phap 2
Được drop up ngay sau đoàn người get line dài khoảng gần 1 km, Liễu Nguyên với Hoà Thượng cứ vậy get line tuần tự sau đoàn người mà không biết quý Thầy thì sẽ có lối đi riêng. Cũng nhờ thấy có một đoàn quý Thầy người Srilanka họ đi riêng nên đã nhập vào đi chung và đến cổng an ninh thì mỗi Thầy được phát 1 cái thẻ Tăng Đoàn và được tuần tự kiểm tra an ninh nghiêm ngặt rồi mới vào cổng đến trước sân chùa là chỗ Ngài giảng pháp. Nếu đi trễ một tí thì chắc sẽ không vào được. Vì trước lúc 9 giờ thì chỗ ngồi khoảng 10 ngàn người bên trong đã kính hết chỗ. Rất đông người đến vì hết chỗ nên cảnh sát an ninh đã không cho vào nữa, cũng ước tính khoảng 2 ngàn người.
Ngồi Dưới Cái Nóng Mùa Hè
Sáng thứ 7 mùa hè trời rất nóng, theo nhiệt độ báo lúc đó thì 84 độ F có khi lên 90 độ F. Nhưng ai ai cũng háo hức được diện kiến đảnh lễ và được nghe Ngài thuyết giảng Phật Pháp. Quý Hoà Thượng được ban tổ chức xếp ngồi trên tiền đường hai bên Ngài, còn chư Tăng Ni trẻ được xếp ngồi dưới sân đối diện Ngài. Liễu Nguyên may mắn đi sớm được xếp hàng ghế đầu nên được nhìn Ngài rất rõ. Trong lúc Ngài thuyết giảng Ngài rất để ý đến thánh chúng ngồi dưới nắng nóng nên Ngài cứ hỏi quý thầy quý vị có nóng lắm không, vì trời rất nóng mà không có mái che tất cả Chư Tăng, Phật Tử Quan Khánh, rất nhiều Nghị Viên các thành phố lân cận… đều ngồi dưới cái nóng mùa hè. Với độ tuổi 81 Ngài cũng cảm nhận cái nóng đó trong trái tim Từ Bi, Ngài dạy đại chúng hãy đội mũ, dù, thậm chí ai không có thì lấy tay áo hoặc sách báo che lên đầu cho đỡ nóng để lắng nghe trọn buổi thuyết giảng trong vòng 2 tiếng. Tăng Ni cũng may mắn được ban tổ chức phát cho 3 vị chung 1 cái dù nên mới đỡ nóng để nghe Ngài thuyết pháp.
Bài Thuyết Pháp Hai Tiếng
Với vỏn vẹn hai tiếng đồng hồ, Ngài thuyết giảng cho mọi tầng lớp, nhiều căn cơ khác nhau cùng hiểu rõ về Phật pháp không phải là đơn giản mà chỉ có những biện tài của các Vị Bồ Tát mới làm được. Đức Dalai Dama đã làm được việc đó, thì ắt phải là một vị Bồ Tát sống. Ngài dùng Trí Tụệ và Từ Bi để thuyết giảng nên như một trận mưa lớn mà muôn loài cây cỏ tuỳ theo sức của mình mà hấp thu đủ để sống an lành. Theo tiểu sử của Ngài thì Ngài đã hoàn thành Tiến Sỹ từ khi tuổi rất trẻ và đã được đào tạo rất đặc biệt, nghiên cứu Tam Tạng Kinh điển rất sâu đặc biệt là đã học hết tất cả các bộ luận nổi tiếng của các Bồ Tát Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, Pháp Xứng…
Chỉ hai tiếng đồng hồ mà Ngài đã thâu tóm lại tất cả giáo điển của Đức Phật thật hay, rõ ràng và thật mầu nhiệm.
Sau khi chào hỏi và cám ơn đại chúng, Ngài bắt đầu vào bài giảng với lời rằng: “ Tôi và các bạn, tất cả chúng ta đều sanh ra cùng chung với thân con người và chết đi đều giống nhau”,  Liền đó Ngài nói về Khổ Đế mà tựu trung là 8 cái khổ mà con người ai ai cũng đều gánh chịu: 1. Sanh khổ, 2. Lão khổ, 3. Bệnh khổ, 4. Tử khổ, 5. Ái biệt ly khổ, 6. Cầu không được là khổ, 7. Oán thù gặp nhau là khổ, 8. Có thân ngũ uẩn nầy là khổ. 
Ngài dạy Đức Phật cũng có thân người như chúng ta, là một thái tử con vua Tịnh Phạn xưa thuộc Ân Độ cũng vì thấy rõ 8 điều khổ căn bản đó và muốn tìm chân lý để giải thoát khổ đau cho bản thân, con ngườichúng sanh.
Ngài đã nhấn mạnh vào việc thiền định, đó là thiền quán tức phải tư duy sâu và đúng, và thiền chỉ là hãy tập trung vào đối tượng để thấy rõ đối tượng. Đức Phật cũng nhờ thiền định suốt 49 ngày đêm mới ngộ đạo tìm ra nguyên nhân khổ đau sanh tử luân hồi là do Tham, Sân, Si mà Tham Ái là nguồn gốc, gọi đây là Tập Đế. Ngài cũng nói Đức Phật cũng nhờ thiền địnhtìm ra Đạo Đế: 37 phẩm trợ đạo, ai tu tập theo thì sẽ thoát khổ đau sanh tử, được hạnh phúc giải thoát. Thế rồi Ngài nhấn mạnh rằng, sau khi đức Phật ngộ đạo đã thấy chân lý quá thâm sâu, Đức Phật sợ con người, chúng sanh khó mà lãnh hội nên nghĩ là sẽ Niết Bàn cùng chánh pháp. Nhưng rồi Đức Phật quán sát thấy có người sẽ tiếp nhận từng phần nhỏ của chánh pháp nên Đức Phật mới từ bi chia ra Chánh Pháp thành 3 thừa: là Thanh Văn thừa cho những ai tu tập Tứ Diệu Đế, Duyên Giác Thừa cho những ai tu tập Thập Nhị Nhân DuyênBồ Tát Đạo cho những ai tu tập Lục Độ Ba La Mật nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh. Ngài nói là chính đức Phật đã quán xét và tìm đến hoá độ 5 anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển, Những người mà đã cùng chung với Ngài tu 6 năm khổ hạnh trước đó. Trong lần chuyển pháp đầu tiên qua bài pháp Tứ Diệu Đế thì 5 anh em Kiều Trần Như chứng quả vị A La Hán. Từ đây Phật Pháp Tăng được hình thành. Kể từ đây ngoài Đức Phật đã có người biết được hạnh phúc của việc học, thọ trì thực hành theo Phật Phápđạt được hạnh Niết BànDiệt Đế. Ngài nhấn mạnh rằng ngoài việc nguyên cứu tam tạng kinh điển phải thực hành theo thì mới có hạnh phúc, an lạc giải thoát
Tiếp đó Ngài nói đến lần chuyển pháp luân thứ 2 của đức Phật tại núi Linh Sơn qua Kinh Bát Nhã. Ngài nhấn mạnh kinh Bát Nhã rất thâm diệu mà cốt yếu là Từ BiTrí Tuệ, là nơi sanh ra chư Phật. Việc tu tập đầu tiên là phải thấy nhân vô ngã qua việc quán chiếu sâu thấy năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thuộc về thân là vô ngã. Kế đến quán thật sâu để thấy vạn pháp cũng vốn giả uyển vô ngã. Ngài nói các pháp không phải tự sanh ra độc lập riêng biệt mà do rất nhiều nhân duyên mà hình thành. Nó có thì có đó ai chấp chặt sai lầm thì liền đó sẽ khổ đau, phiền não sanh khởi. Vì bản chất nó là vô thường, duyên sanh vô ngã. Ngài nói rằng nếu suy xét cho cùng theo ngôn ngữ khoa học ngày nay gọi là vi lượng tử thì bên trong vốn trống không, nguyên lý nầy Ngài Long Thọ vị tổ thể kỷ thứ 2 bên Ấn Độ đã nói rất rõ và hôm nay khoa học mới thực nghiệm, Học Thuyết Ngài Long Thọ còn cao hơn một bậc là hãy ly hết thảy các tướng, chẳng có, chẳng không, mà cũng chẳng vừa có vừa không. Xả bỏ tất chấp, tất cả sự thấy biết giữa chủ thể và khách thể thì mới nhập vào cái bao la diệu dụng. Ngài nói Ngài đã từng gặp rất nhiều các nhà Khoa Học để luận bàn rất nhiều về điều nầy. Ngài cũng nói nếu muốn hiểu rõ được thì cần phải học sáu bộ luận của Ngài Long Thọ mà quan trọng nhất là bộ Trung Quán Luận, rồi học các bộ luận của Ngài Thế Thân mà quan trọng nhất là bộ Duy Thức Luận. Ngài cho ví dụ: Nếu có một màu xanh mà ta không dùng mắt nhìn thấy thì màu xanh cũng xem như tồn tạikhông tồn tại, chuyện nầy khoa học cũng đã công nhận mà trong Duy Thức còn vô số cái rất hay. Ngài nói môn Duy ThứcKinh Hoa Nghiêm sẽ hợp với những sự tìm tòi của Khoa Học ngày nay và tương lai…Ngài nói rằng chính Ngài đã suốt 30 năm học hết Tam Tạng Kinh Điển và nhờ các Bộ Luận của các Bồ Tát Long Thọ, Thế Thân, Pháp Xứng…, Kim Cang Thừa nguồn góc Phật Giáo Tây Tạng, Ngài mới thấy được Phật Pháp. Nên Ngài khuyên thính chúng cũng nên như vậy và hãy phát khởi Tâm Bồ Đề cứu độ chúng sanh bằng cách liễu ngộ Phật Pháp và đi tìm chúng sanh để hoá độ như chính Đức Phật cũng đã đi tìm chúng sanh hoá độ sau khi đức Phật ngộ đạo.
Ngài cũng nói Đức Phật chuyển luân lần thứ 3 bằng việc dùng Mật Chú cho những ai thanh tịnh thì tiếp nhận tu tập để thẳng vào cảnh giới Phật đó là Pháp Hoa, Lăng Già, Kim Cang Thừa…
Trời vẫn cứ nóng nhưng dường như cả  thính chúng như được trở về với chánh Pháp khi đức Phật còn tại thế. Trong khi Ngài thuyết pháp cũng có rất nhiều người muốn đến chụp hình nên đã tiến đến quá gần Ngài khiến an ninh bảo vệ đã can thiệp không cho phép làm vậy. Thấy vậy Ngài nói rất từ bi rằng, không sao đâu, miễn rằng đừng làm ồn đến buổi thuyết pháp thì ngồi đâu cũng được. Thế rồi ngài thấy em bé 2 tuổi gần đó ngài vẫy tay chào và bảo hãy đến gần bên Ngài. Một điều xúc động hơn là một em bé tàn tật khoảng 4 tuổi hình như không đi, không, nói được mà chỉ nằm trên xe lăn, là con của một gia đình người Mỹ Trắng muốn được gần Ngài đễ được bình an. Ngài đã rất hoan hỷ nên an ninh cảnh sát đã bế nguyên cả xe lăn và em bé lên pháp toàn cận Ngài để em bé được nhìn Ngài và được Ngài cùng thính chúng cầu an.
Sau đó buổi thuyết pháp lại tiếp tục. Ngài nói rằng truyền thống Phật Pháp Đại Thừa, Nguyên Thuỷ, hay Kim Cang Thừa… Điều bắt nguồn từ Đức Phật do vì truyền thống xứ sở, quốc gia khác nhau nhưng đều được xây dựng trên Giới Định Tuệ và luôn lấy Từ BiTrí Tuệ để thực hành thiện pháp và đó cũng là hạnh phúc cho mình và người. Về Giới Luật thì 5 Trọng Giới luôn là căn bản và các giới luật khác cũng được khai triển thêm từ đó.
Ngài nhấn mạnh rất nhiều lần là muốn hiểu được Kinh Điển lời Phật Phật trong nhiều tạng Kinh Pali, Sankarit, Tây Tạng, Hán Tạng, Việt Tạng…thì cần phải đọc và nguyên cứu các Bộ Luận của các Bồ Tát sau thời Đức Phật như Bồ Tát Long Thọ, Bồ Tát Thế Thân, Pháp Xứng…. Vì các Tổ Sư Bồ Tát đó đã đọc hết kinh Phật đã hiểu, liễu ngộ nên đã giảng giải, để lại các bộ luận cho thế hệ chúng ta, nghiên cứu tu tập. Ngài nói Ngài cũng nhờ có thiện duyên mới đọc hết các Bộ Luận đó và rồi theo truyền thống Tây Tạng thì cùng nhau ngồi bàn luận Phật pháp. Việc luận bàn Phật Pháp cũng làm theo lời dạy của Đức Phật. Những người nghi ngờ Phật pháp sẽ đi tìm hiểu giải đáp và sớm ngộ rõ Phật pháp. Nên việc nghi ngờ và tìm câu trả lời là rất cần thiết. Ngài nói đạo Phật không phải chỉ tin rồi đến mà hãy đến và thực hành thấy hạnh phúc thì đó mới là chính mình thấy Phật qua việc chính mình làm việc Phật…
Ngài nói chúng ta cùng làm người, ai ai cũng khát khao hạnh phúc giải thoátsự thật hạnh phúc có trong trái tim từ bi mà bất kỳ ai không kể tôn giáo nào nếu có trái tìm từ bi qua việc làm trí tuệ thì sẽ thấy hạnh phúc. Và ai ai cũng như vậy thì nhà nhà hạnh phúc, thế giới hoà bình hạnh phúc.
Ngài cũng kể câu chuyện lúc Ngài ghé qua Sanfan sico thấy nhiều người vô gia cư Ngài đã đãi một bữa ăn và cùng ăn chung thân mật vì tất cả chúng ta đều là con người
Kết thúc là một tràng pháo tay rất dài rất hoan hỷ của thính chúng, mà theo đúng nghi thức Phật giáo thì phải là đảnh lễ dưới chân Ngài, hoặc đi nhiễu quanh Ngài ba vòng hoặc bảy vòng từ phía trái qua phải, nhưng vì bối cảnh không gian không cho phép và trong số đông 15 ngàn người tham dự không chỉ Phật tử truyền thống của một quốc gia mà rất nhiều quốc gia và có rất nhiều tôn giáo khác cũng đến nghe pháp trong hoan hỷ.
Cũng vừa đúng 11 giờ, cái nóng gay gắt hơn và chắc ai cũng đói, nên Ngài mĩm cười khì khì với cái tuổi 81 mà luôn thật tươi như một Vị Bồ Tát Lớn Tuổi rồi nói rằng, ôi thật mừng đã hoàn thành, rất cám ơn mọi người đã lắng nghe mặc dù Tôi biết thời tiết rất nóng.
Tuy 2 tiếng ngắn ngủi với khác biệt ngôn ngữ, Ngài nói tiếng Anh hoặc tiếng Tây Tạng rồi được một Tỷ Kheo Ni dịch nhanh ra tiếng Việt và một Phật Tử dịch ra tiếng Anh nên nếu tính thì bài thuyết pháp chính thì Ngài dạy chỉ hơn 1 giờ đồng hồ mà đã thâu tóm toàn bộ giáo điển mà người lần đầu đến với Phật Pháp cũng sẽ hiểu và những ai đã từng nhiều năm tu học thì sẽ thấm nhuần hơn rất nhiều. Liễu Nguyên cũng được duyên lành nghe trực tiếp lần đầu cộng với gần 30 năm nguyên cứu tu học, chỉ mới đọc được mấy bộ Kinh Luận, hôm nay được Ngài giới thiệu và khuyên dạy tu tập, Ngài còn nói hạnh phúc của Ngài là được làm học trò nhỏ bé của Đức Phật Thích Ca thì con cũng hạnh phúc được làm học trò nhỏ bé của Ngài. Liễu Nguyên chỉ vắn tắt lại những gì nhớ được, chắc chắn còn nhiều ý hay mà Liễu Nguyên không nhớ nên mong quý vị hoan hỷ. Chắc rằng nhân duyên Phật Pháp còn mãi nên những cái Liễu Nguyên chưa nhớ sẽ gặp và nói tiếp trong tương lai.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2493)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2307)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2623)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2408)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3208)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2271)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2371)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2494)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2444)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2499)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2156)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2523)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3010)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2615)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2668)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2943)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2513)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2548)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4005)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2752)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3009)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3275)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2266)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2480)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2766)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2966)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2838)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2590)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2599)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3167)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2570)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2248)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2356)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2459)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2564)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2651)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2701)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3222)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2529)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2107)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2560)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2028)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2788)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2867)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2900)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2683)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2475)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2750)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2329)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3257)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant