Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hãy Xây Dựng Ngôi Nhà Bồ Đề Tâm Và Lái Chiếc Xe Bồ Đề Tâm

25 Tháng Bảy 201615:04(Xem: 8356)
Hãy Xây Dựng Ngôi Nhà Bồ Đề Tâm Và Lái Chiếc Xe Bồ Đề Tâm

HÃY XÂY DỰNG NGÔI NHÀ BỒ ĐỀ TÂM
VÀ LÁI CHIẾC XE BỒ ĐỀ TÂM

Khenchen Konchog Gyaltshen
Thanh Liên dịch Việt

Hãy Xây Dựng Ngôi Nhà Bồ Đề Tâm Và Lái Chiếc Xe Bồ Đề Tâm

 

Bồ đề tâm là nguồn mạch của tất cả chư vị Bồ Tát, và toàn bộ Giáo pháp chỉ để lợi lạc chúng sinhĐặc biệt là trên con đường đạt đến Phật quả trong một đời, điều trọng yếu là phải thực hành giáo lý phát triển và thành tựu của Mật thừa.

 

DO BỞI BỒ ĐỀ TÂMPhật pháp là một giáo lý quý báuthiêng liêng. Bồ đề tâm là xương sống, trọng tâm, của Phật pháp. Không có nó, Phật pháp không có gì đặc biệt. Bồ đề tâm là tâm phổ quát, thái độ mà ta phát triển để mọi chúng sinh, bất luận là ai, có thể đạt được Phật quả, tâm toàn giác. Đây là điều riêng biệt quan trọng nhất cần lưu giữ trong tâm. Nó là thực hành tuyệt vời của Phật pháp.

Bồ đề tâm gồm có hai yếu tố—đại bi và trí tuệ. Sự phóng chiếu của tâm bi mẫn là khát khao nhận lãnh trách nhiệm để giải thoát tất cả chúng sinh khỏi đau khổ. Phóng chiếu của tâm trí tuệ là sự toàn giác. Tâm trí tuệ có sự nhận thức vĩ đại, qua đó nội quán trọng yếu hiển lộ. Phật quả vượt thoát đau khổ và mọi nguyên nhân của đau khổ mà không loại trừ điều gì. Vì thế, để tất cả chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi đau khổ, họ phải đạt được sự toàn giác.

Bồ đề tâm là nguồn mạch của tất cả chư vị Bồ Tát trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Bồ Tát Hạnh nói: “Giây phút bạn nuôi dưỡng Bồ đề tâm, ngay cả giữa những phiền não bất thiện, bạn trở thành một Bồ Tát và là một đối tượng quy y cho tất cả chúng sinh.” Ngay cả giữa sinh tử với mọi khuynh hướng của nó, ngay giây phút bạn nuôi dưỡng Bồ đề tâm, thân bạn chuyển hóa thành thân của một Bồ Tát. Đây quả là thuật giả kim vĩ đại! Thuật giả kim bình thường có thể biến sắt thành vàng, nhưng Bồ đề tâm có thể biến một con người bình thường thành một Bồ Tát, một báu vật cho tất cả chúng sinh.

Hãy nhìn vào tiểu sử của Milarepa. Trong phần đầu của đời ngài, ngài sử dụng huyền thuật để làm tổn hại nhiều người. Nhưng sau này, khi đã nuôi dưỡng Bồ đề tâm, ngài trở nên vô cùng quý báu. Ngài đã thành tựu Phật quảtrở thành một suối nguồn của an bìnhhạnh phúc của tất cả chúng sinh do bởi thực hành Bồ đề tâm này.

Đức Phật không ban tất cả những Giáo pháp này vì lợi ích của riêng Ngài, hoặc để trở nên nổi tiếng hay giàu có. Đức Phật hoàn toàn viên mãn, thoát khỏi mọi đau khổ, vì thế Ngài không cần bất kỳ điều gì từ chúng sinh. Ngài chỉ giảng dạy để lợi lạc chúng sinh. Vì thế, ta cũng phải nghiên cứuthực hành những giáo lý này vì lợi ích của chúng sinh. Trước hết, điều tối quan trọng là ta phải bắt đầu việc thực hành của ta; thứ hai, ta thực hiện việc tu tập (thực hành) của ta; và thứ ba, ta hoàn thiện việc thực hành. Đức Phật giác ngộ nhờ sự viên mãn của Bồ đề tâm. Tất cả những thực hành khác là những phương pháp để làm viên mãn Bồ đề tâm. Trong Kim cương thừa, mọi quán tưởng, trì tụng thần chú, và “các thực hành bên trong” về các luân xa và kinh mạch không là gì khác ngoài các phương pháp để làm viên mãn Bồ đề tâm.

Đức Phật đã giảng Pháplợi lạc của chúng sinh, điều này có nghĩa là ta cũng có thể nhận được lợi lạc này. Trừ khi chúng ta được lợi lạc từ Pháp, ta không thể hiến tặng lợi lạc này cho người khác. Hoàn toàn không thể được. Ta phải thực hành tu tập, không chỉ để có sự hiểu biết tri thức. Hiểu biết tri thức là một bước quan trọng đầu tiên, nhưng còn quan trọng hơn nữa là phải thành tựu những gì ta đã học. Nuôi dưỡng Bồ đề tâm có nghĩa là đưa Giáo pháp vào thực hành để đạt được Phật quả. Như thế, Bồ đề tâmcần thiết để đạt được Phật quả. Với sự hỗ trợ của Bồ đề tâm, ta có thể thành tựu Phật quả chỉ trong một hay hai cuộc đời.

Ta đau khổ trong sinh tử do bởi những mê lầmtư tưởng bất thiện của ta. Ngoài Bồ đề tâm và những Giáo pháp tôn quý, không điều gì có thể chắc chắn giải thoát ta khỏi đau khổ này. Cho dù ta dùng loại kỹ thuật hiện đại nào hay dù những nghiên cứu khoa học có hiệu quả đến đâu chăng nữa, chúng không có cách nào để vĩnh viễn giải thoát ta khỏi đau khổ.

Bồ đề tâm là một người bạn vĩ đại và đáng tin cậy như thế! Một người bạn bình thường không thể cho ta loại hạnh phúcvô úy (không sợ hãi) mà Bồ đề tâm có thể. Ngay khi ta nuôi dưỡng Bồ đề tâmthực hành tâm tôn quý này, ta thoát khỏi mọi sợ hãi. Cho dù ta làm điều gì trong sinh tử, ta luôn luôn bắt gặp nỗi sợ hãi. Ta xây dựng một căn nhà tuyệt đẹp và đắt tiền với rất nhiều sự bảo vệ và bảo hiểm. Bởi vui thích, ta mua những chiếc xe tuyệt đẹp và đắt tiền, nhưng sau đó vì sợ hãi ta phải mua bảo hiểm để bảo vệ nó. Nhưng khi ta kết bạn với Bồ đề tâm, mọi sợ hãi được chuyển hóa—không chỉ trong đời này mà còn trong tương lai. Vì thế hãy xây dựng ngôi nhà Bồ đề tâm và lái chiếc xe Bồ đề tâm. Cuối cùng, Bồ đề tâm sẽ mang lại cho ta cơ hội vô song để trở thành một vị Phật. Vì thế, ta nên kết bạn với Bồ đề tâm. Đức Milarepa thường nói: “Nếu bạn ăn, hãy ăn thực phẩm Bồ đề tâm. Nếu bạn uống, hãy uống nước Bồ đề tâm. Nếu bạn du hành, hãy du hành với bạn hữu của bạn, Bồ đề tâm.”

Ta đảnh lễtôn kính Đức Phật và các đại Bồ Tát như một suối nguồn của sự an bình. Các ngài thật đáng tin cậy; ta có thể quy y (nương tựa) các ngài. Đó là bởi Bồ đề tâm. Bồ đề tâmtài sản tối hảo mà ta có thể có trong đời mình. Của cải khác có thể bị mất mát hay đánh cắp; bất kể điều gì cũng có thể xảy ra cho nó. Nhưng nếu ta có Bồ đề tâm, của cải này mang lại mọi an ủi, hạnh phúc. Người sở hữu Bồ đề tâm sẽ sở hữu của cải của vũ trụ.

Các đại Bồ Tát có lòng dũng cảm bất khuất do bởi thực hành Bồ đề tâm của các ngài. Khi ta có Bồ đề tâm, ta sẽ hạnh phúc nếu ta giàu có; ta sẽ hạnh phúc nếu ta nghèo khổ. Ta sẽ hạnh phúc khi ta thành công trong sự nghiệp; ta sẽ hạnh phúc khi ta thất bại. Bồ đề tâm sẽ cho ta cơ hội để sống một cách điềm đạm.

Nếu ta không có Bồ đề tâm, bản ngã của ta luôn luôn làm suy yếu công việc của ta bằng cách này hay cách khác. Không có Bồ đề tâm, mọi thực hành khác trở nên cạn cợt; thậm chí đôi khi chúng không phải là những thực hành Phật giáo. Không có Bồ đề tâm, cho dù ta thực hành Mahamudra (Đại Ấn) hay Dzogchen (Đại Viên mãn), những thực hành ấy sẽ không mang lại kết quả mong muốn. Nhưng nếu ta có Bồ đề tâm, ta sẽ đạt được Phật quả cho dù ta không mong chờ nó. Không có Bồ đề tâm, cho dù ta thực hành Mật điển du già tối thượng hay các luân xa và kinh mạch, những thực hành này sẽ không mang lại kết quả là sự giác ngộ viên mãn.

Phát triển và thành tựu ám chỉ Kim cương thừa, cũng được gọi là tantra (Mật điển) hay Bổn Tôn du già, là những thực hành cao cấp. Thực hành Kim Cương thừa là một phương pháp đặc biệt để tịnh hóa dấu vết của những che chướng vi tế nhất đối với Phật quả. Thực hành này trực tiếp khám phá Phật tánh toàn hảo, tự thân nó là Phật quả. Vì thế Kim cương thừa bao gồm những phương tiện thiện xảo bao lasâu xa. Để thấu hiểu phương pháp này, ta phải có thiên khiếu, dũng khí, và có tâm từ bỏ sinh tử vĩ đại. Để đi vào Kim cương thừa, ta phải hiểu rõ những giáo lý căn bảnthực hành thiền định, chẳng hạn như Bốn Chân lý Cao quý (Tứ Diệu Đế), Bồ đề tâm chuẩn bị, và ý nghĩa của tánh Không.

Giai đoạn phát triển xảy ra khi bạn quán tưởng thân tướng của Bổn Tôn thiền định, hay yidam—là bản thân bạn hay ở trước mặt bạn—như sự bất khả phân của hình tướngtánh Không. Hình tướng của nó xuất hiện từ tánh Không và là một phản chiếu của phẩm tính không ngừng nghỉ của nó. Trong trạng thái đó, ta thực hành sự thành tựu, nơi mọi che chướng thuộc về thân, ngữ, tâm được tịnh hóa. Có hai loại thực hành thuộc giai đoạn thành tựu: với những biểu hiện và không biểu hiện.

Trong sự thành tựu với các biểu hiện, mọi hiện tượng thuộc về thân, ngữ và tâm được tịnh hóa nhờ sự quán tưởng, bằng cách tụng các thần chú, và bằng cách thực hành với các luân xa và kinh mạch. Thành tựu không có các biểu hiện là thực hành Mahamudra, nó khám phá phương thức an trụ đích thực của mọi hiện tượng, tính chất thuần tịnh của giác tánh không ranh giới. Khi ta thực hành với động lực Bồ đề tâm, thực hành trở nên mãnh liệt đến nỗi ta có một cơ hội để thành tựu Phật quả ngay cả trong một đời người.

Trích trong nguyên tác: “A Complete Guide to the Buddhist Path” (Một Hướng dẫn Đầy đủ về Con đường Phật pháp) của Khenchen Konchog Gyaltshen

Thanh Liên dịch sang Việt ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2760)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2664)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2330)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2418)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2552)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2614)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3074)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2523)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3013)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2877)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2622)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2394)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2694)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3276)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2563)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2057)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2955)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2726)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant