Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vì Những Trái Việt Quất Lạnh Lẽo?

05 Tháng Giêng 201713:05(Xem: 7321)
Vì Những Trái Việt Quất Lạnh Lẽo?

VÌ NHỮNG TRÁI VIỆT QUẤT LẠNH LẼO?

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Victor Chan

Tuệ Uyển chuyển ngữ

Vì Những Trái Việt Quất Lạnh Lẽo

 

Kể từ khi rời Đạo Tràng Giác Ngộ, tôi đã bị ám ảnh với một câu hỏi dằn dặt đau khổ: làm thế nào vụ đau bụng của Đức Đạt Lai Lạt Ma leo thang thành một cuộc khủng hoảng bùng vở, cuống cuồng đưa Đức Đạt Lai Lạt Ma đến một bệnh viện đặc biệt ở Bombay? Tôi muốn khám phá nguyên nhân cơn bệnh này với Đức Đạt Lai Lạt Ma.

"Ngài có cảm thấy xấu đi khi ngài đi trên đường dốc đến đỉnh Linh Thứu không?" tôi hỏi ngài trong phòng tiếp kiến. Ngari Rinpoche kéo chiếc ghế-thẳng-lưng hơi gần hơn anh của ông. Ông không có đi Linh Thứu với chúng tôi, và ông quan tâm muốn biết điều gì đã xảy ra trước khi đau xảy ra cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.

"Không," Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời. "Tôi không có cảm nhận xấu trong buổi sáng ấy. Không có gì hết. Rất khỏe khoắn. Nhưng rồi thì, đã có một số nguyên nhânđiều kiện rồi." 

"Ngài có ăn thứ gì đó tệ hại ở khách sạn Nhật Bản ở Raigir?"

"Tôi không nghĩ thế."

"Nhưng ngài bị tiêu chảy nhẹ sau khi dùng trưa tại khách sạn?"

"Kiết lỵ."

"Tôi đã nghe từ Bác sĩ Tseten là có vi khuẩn amip trong dạ dày của ngài. Chúng phải đến từ thực phẩm hay nước kém vệ sinh."

"Tôi không biết," Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời. "Những con amip ở trong bao tử tôi bao lâu tôi không biết. Không nhất thiết là đến ngay ngày hôm ấy … Có nhiều nguyên nhân. Một,  nguyên nhân tức thời, là sự bất cẩn."

"Bất cẩn?"

"Bất cẩn bởi vì thông thường thân thể tôi Okay, rồi thì tôi nghĩ … " Đức Đạt Lai Lạt Ma nhìn qua Lhakdor và chuyển sang Tạng ngữ.

"Đức Thánh Thiện cảm thấy ngài rất khỏe mạnh, cho nên ngài luôn tự bắt buộc ngài, làm việc quá nhiều, du hành quá nhiều," Lhakdor thông dịch.

"Thiếu cẩn trọng," Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích.

Những người làm việc gần gũi với Đức Đạt Lai Lạt Ma đồng thuận với ý kiến chân thành này. Ngài giữ một thời khóa thúc ép, một cách đặc biệt khi ngài trên đường. Tôi đã du hành với ngài đủ thời gian để tự biết điều này. Tôi trẻ hơn mười tuổi. nhưng năng lượng và sức chịu đựng của ngài làm tôi phải xấu hổ. Để theo kịp ngài dứt khoát không là một cuộc đi bộ trong công viên.

"Rồi thì đi lên đỉnh Linh Thứu buổi sáng, đổ mồ hôi nhiều quá," Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục. "Trên đỉnh núi, hơi lạnh. Đi xuống, lại đổ mồ hôi, rồi bửa trưa, cởi áo ra. Sau bửa trưa, uống nước chanh tươi  - thông thường không rắc rối gì, nhưng ngày ấy, do vì điều gì đấy đã quấy rầy, điều đó trở thành một trong những nhân tố.

"Một nguyên nhân quan trọng hơn. Trước khi tôi đi  hành hương ở Linh Thứu và Na Lan Đà, trước hết tôi đi Nam Ấn để giảng dạy. Trong khi tôi ở đấy, tôi bắt đầu dùng thuốc Tây Tạng cho gan và mắt. Đó là thuốc lạnh - nó làm thân thể lạnh. Khoảng ba mươi năm trước, tôi đã dùng thứ thuốc ấy cho gan, và ngay lập tức cơn đau nổi lên chút ít ở đây trong bao tử tôi. Thay vì thế tôi ngừng và dùng thuốc để sinh nhiệt. Cơn đau biến mất hoàn toàn. Bây giờ lần này, chính xác cùng chỗ. Quá lạnh."

Quá lạnh. Đó là những gì mẹ tôi thường nói bất cứ khi nào tôi bị bệnh. Tôi không quan tâm nhiều về triệu chứng của tôi là gì. Rắc rối luôn luôn là "lạnh bốc hơi". Mẹ tôi kéo tôi đi xuyên đảo Hồng Kông bằng xe lửa điện đến vùng ngoại ô West Point, nơi chúng tôi bước lên những lối đi hẹp, dốc lót bằng những viên đá gập ghềnh, đến một tiệm bán cỏ thuốc, đông y dược. Nơi ấy lờ mờ, và hầu hết các chỗ nào cũng có những ngăn đựng thuốc bằng gỗ đỏ, đầy cỏ thuốc. Thầy thuốc sẽ bắt mạch tôi, xem lưỡi tôi, kê toa thuốc với bút và mực đen, và cân thuốc từ những ngăn chứa. Trở về nhà, mẹ tôi sẽ sắc thuốc trong vài tiếng đồng hồ, cho đến đúng mức cần thiết nước thuốc sánh đen. Thuốc dược thảo mặc dù đắng, nhưng không hoàn toàn khó chịu. Tôi phải uống hết một lần trong khi nó đang nóng. Thông thường, tôi thật khá hơn không lâu sau đó - có lẽ như thế mặc dù thuốc đắng, tôi thích nghĩ như vậy.

"Giống như thuốc Tàu, như thuốc Ayurveda của Ấn Độ, thuốc Tây Tạng thường được phân làm hai thứ nóng và lạnh," Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích. "Hầu hết bệnh tật của phần dưới thân thể liên hệ với lạnh nhiều. Rắc rối của gan, đầu có nghĩa là quá nóng. Tôi dùng thuốc đó, làm tăng lạnh trong cơ thể tôi. Thỉnh thoảng chút gì đau đau bắt đầu. Rồi thì trong cuộc hành hương, những nguyên nhân tức thời xảy ra, và điều gì đó bùng phát."

"Một nhân tố khác," ngài tiếp tục. "Tháng Năm vừa rồi, khi tôi ở Mỹ, hệ thống tiêu hóa của tôi rất tốt, tuyệt vời. Cho nên trong bửa điểm tâm tôi dùng sửa lạnh nhiều. Sau đó ở Salt Lake City, một phụ nữ nói với tôi rằng quả việt quất (blueberry) là rất tốt cho mắt. Bà nói với tôi là phi công Hàng Không Quân Sự Hoa Kỳ ăn mứt việt quất nhiều lắm. Thế nên tôi ăn một ít quả việt quất, ngon lắm. Rồi sau đó, ngày qua ngày, tăng lên. Thế đó nó tác động đến  hệ thống tiêu hóa tới một mức độ nào đó - quá nhiều lạnh."

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói ngắn với Lhakdor. "Dường như là mọi việc đã bắt đầu như thế ấy," Lhakdor thông dịch, "do bởi sự lạnh lẽo của quả việt quất."

***

Vậy là do sự lạnh lẽo của những quả việt quất đã châm ngòi khủng hoảng. Đó hoàn toàn không phải là câu trả lời mà tôi mong đợi. Nhưng tôi đành cam chịu với sự kiện rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma không giống như bạn và tôi. Ngài có một cách khác biệt đáng chú ý về việc nhìn thế giới chung quanh ngài. Vẫn còn có một vài việc về cơn bệnh mà tôi muốn biết.

"Điều gì xảy ra khi ngài ở Đạo Tràng Giác Ngộ," tôi hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma, "sau khi ngài trở lại từ Patna?"

"Năm, sáu ngày ở Shechen, không khá gì hơn. Cho nên tôi nghĩ: nếu lễ Thời Luân bắt đầu, nếu một khi bắt đầu rồi mà thất bại, thế thì tệ hại lắm. Do thế, tốt hơn là đình lại, dời lại. Vì vậy tôi quyết định. Lúc đầu, vẫn hy vọng giảng dạy ba ngày. Nhưng không thể làm được. Rồi thì một buổi sáng Bác sĩ Tseten chú ý rằng phía này sưng phồng ra," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, vỗ vỗ vào phía bên trái dạ dày ngài.

"Tôi đề nghị Đức Thánh Thiện vào bệnh viện ngay ngày hôm ấy," Lhakdor nói.

"Đó là tại sao ngài đã bãi bỏ lễ cầu nguyện trường thọ vào ngày cuối cùng của lễ Thời Luân?" tôi hỏi.

"Vâng," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói. "Ngay ngày đó, không thể sắp xếp chuyến đi. Sau đó cố gắng để xem có thể đến Bombay ngày hôm sau không. Một vài người liên lạc với Delhi. Chính quyền bang đồng ý cung cấp một trực thăng, chính quyền trung ương cung cấp một chuyến bay đặc biệt từ Patna đi trực tiếp Bombay. Ở Bombay, từ phi trường thẳng tới bệnh viện."

''Khi Đức Thánh Thiện bước vào bệnh viện," Ngari Rinpoche nói với tôi, một cách tự ý. "việc đầu tiên ngài thấy là một chai nước biển và một cây kim lớn đang chờ ngài. Ngài cảm thấy không thoải mái. Ngài hơi sợ." Mặc dù Ngari Rinpoche ở đấy chính yếu để phụ Lhakdor thông dịch, nhưng tôi luôn tin rằng ông đến với một tin tức gì đó hấp dẫn.

"Nhưng không có lựa chọn nào khác, cho nên tôi phải vô nước biển," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói, hơi nhăn nhó với ký ức.

"Họ đã thử nghiệm những gì ở bệnh viện?" tôi hỏi.

"Họ kiểm tra đủ thứ. Bao tử, ruột, dĩ nhiên. Cũng như tim, gan, máu. Không có gì bệnh tật. Không ung thư."

"Nhưng điều gì làm cho sưng lên?" tôi  hỏi.

"Họ không thể tìm ra. Mặc dù một chuyên gia đã nói với tôi …" Đức Đạt Lai Lạt Ma chuyển sang Tạng ngữ.

"Sau khi khám cho Đức Thánh Thiện," Ngari Rinpoche thông dịch, "chuyên gia nói mọi thứ hoàn toàn Okay, không có dấu hiệu gì của ung thư. Sau đó ông nói: đây là cơn bệnh trầm trọng. Nó có thể giết  ngài. Có một lỗ thủng bé tí trong ruột ngài. Nếu nó lớn hơn, nó có thể đã giết ngài."

Tôi liếc sang Đức Đạt Lai Lạt Ma, có một nụ cười mĩm kín đáo trên khuôn mặt ngài. Giống như ngài lấy làm vui một cách bí mật rằng ngài xém chết.

Một vài tu sĩ vào phòng tiếp kiến, mang theo những cái khay. Một tu sĩ cẩn thận đặt một chén có nắp nước nóng bên cạnh Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một vị khác đặt một cái khay với một bình Nescafé uống liền, một vài gói trà, và một bình thủy nước nóng trên một cái bàn thấp bên cạnh tôi. Họ rời phòng một cách lặng lẽ như khi họ đến. Ngari Rinpoche đứng lên và bước đến tôi, và thì thầm trong tai tôi, "Ông muốn cà phê hay trà?"

Mắt tôi vẫn không rời Đức Đạt Lai Lạt Ma. "Dạ, cà phê." Tôi cảnh giác một cách mơ hồ với Rinpoche đang cho một muỗng Nescafé uống liền vào ly và đổ nước nóng vào.  Ông dựa gần vào tôi và thì thầm vào tai tôi một lần nữa, "Sửa? Đường?"

"Uh, vâng, cảm ơn," tôi trả lời một cách tự động. Khi tôi lật qua những trang giấy về những loại câu hỏi, một thoáng hoảng loạn bùng lên. Tôi đã lạc mất chỗ câu hỏi cuối của tôi, và tôi không biết đáng lẻ tôi phải hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma điều gì kế tiếp. Cà phê luôn luôn là một sự chào đón hào sảng: bây giờ đang ở giữa đoạn đường của hơn hai giờ phỏng vấn, năng lượng của tôi có khuynh hướng giảm sút. Mà đôi khi sự ngắt lời có thể làm cho tôi đánh mất sự tập trung tế nhị của tôi.

Rồi thì tôi nhớ điều gì đó mà Bác sĩ Tseten đã đề cập với tôi trong một lần đàm đạo.

"Bác sĩ Tseten nói với tôi rằng những bác sĩ Ấn Độ ở Bombay nói trái tim của ngài như của một người hai mươi tuổi," tôi nói với Đức Đạt Lai Lạt Ma.

"Vâng, đúng đấy," ngài trả lời." Sau khi kiểm nghiệm điện tâm đồ (ECG) các bác sĩ ở Bombay báo cho tôi biết. Thật sự thì bác sĩ ở Patna người khám tôi cũng nói giống y như vậy."

"Ngài nghĩ đâu là lý do cho điều này?" tôi hỏi khi tôi ngụm cà phê và nuốt xuống một cách tham lam.

"Tôi nghĩ là sự hòa bình của tâm hồn," Đức Đạt Lai Lạt Ma nói không do dự.

"Trái tim của ngài giống như hai mươi tuổi bởi vì ngài có một sự hòa bình của tâm hồn?"

"Vâng," Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh. "Bằng khác đi, không có điều gì đặc biệt về tôi. Tôi không có tập thể dụcđặc biệt."

Một người đàn ông sáu mươi bảy tuổi với trái tim hai mươi tuổi. Đức Đạt Lai Lạt Ma không nghi ngờtâm thức ấy có năng lực để chửa trị thân thể. Đối với ngài, tâm thứcthân thể thuộc về một sự tương tục không tách rời nhau. Khi điều gì đó xảy ra cho một thứ, thì thứ  kia bị ảnh hưởng - mối lệ thuộc hổ tương của tất cả mọi thứ đã là mật ngôn của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong nửa thế kỷ qua. Bây giờ, ngay cả những bác sĩ và các nhà nghiên cứu chủ đạo chuyên môn cũng đi đến cùng kết luận. Một sự rối loạn trong thận có thể có hậu quả nghiêm trọng cho não bộ. Và một sự phiền muộn bây giờ được xem là nhân tố nguy hại quan trọng cho bệnh tim - nó có thể tệ hại không kém gì mở trong máu. Sau cùng, thân và tâm cùng chia sẻ những khối xây dựng - máu, thần kinh, kích thích tố, kháng thể. 

Đây là vấn đề Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thiết lập như thế  nào: "Rèn luyện tâm thức, điều  này có nghĩa là làm mạnh những cảm xúc tích cực đó chẳng hạn như tha thứtừ bi, chẳng hạn như hồi hướng lợi lạc cho người khác. Những cảm xúc tiêu cực như thù hận, ganh tỵ, đây là những thứ mà quý vị gọi là kẻ thù. Những cảm xúc tiêu cực qua tu tập, chúng ta có thể giảm chúng đến mức tối thiểu. Sự rèn luyện tâm thức này, theo một số nhà khoa học là liên hệ rất nhiều với sức khỏe của chúng ta." 

"Lấy thí dụ như tha thứ. Có hai mức độ ở đây. Một mức độ: tha thứ có nghĩa là ta không nên phát triển những cảm giác của trả thù. Bởi vì trả thù làm tổn hại người khác, do thế đó là một hình thức của bạo động. Với bạo động, thường có phản bạo động. Điều này thậm chí gây ra nhiều bạo động hơn - rắc rối không bao giờ giải quyết được. Cho nên đó là một mức độ. Một mức độ khác: tha thứ có nghĩa là ta nên cố gắng không phát triển những cảm giác của sân hận đối với kẻ thù của ta. Sân hận không thể giải quyết rắc rối. Sân hận chỉ đem đến những cảm giác không thoải mái cho chính ta. Sân hận phá hoại sự hòa bỉnh tâm hồn của chính ta. Tâm trạng hạnh phúc không bao giờ hiện hữu, không có trong khi sân hận vẫn còn. Tôi nghĩ đó là lý do chính tại sao chúng ta nên tha thứ. Với một tâm thức tĩnh lặng, tâm thức hòa bình hơn, thân thể khỏe mạnh hơn. Một tâm thức khích động đầu độc sức khỏe của ta, rất tổn hại cho thân thể. Đây là cảm nhận của tôi."

Tôi hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma ngài có nghĩ điều gì đó tích cực đã hình thành do bởi bệnh tật của ngài không. Những người Tây Tạng khắp thế giới đã cực kỳ lo lắng về ngài. Trong khi ngài nằm trên giường bệnh ở tu viện Shechen, hàng trăm nghìn người hành hương đã ở ngoài trời cả đêm, dâng lời cầu nguyện cho Đức Đạt Lai Lạt Ma giữa những điều kiện rõ ràng của mùa đông.

Đức Đạt Lai Lạt Ma chọn trả lời bằng Tạng ngữ và để Lhakdor thông dịch: "Đức Thánh Thiện nói rằng tình cảnh là một sức mạnh kích hoạt tốt đẹp cho việc tiến hành những hành vi tốt đẹp, cho việc theo đuổi những hành vi tâm linh." 

Tôi không hiểu lắm.

"Nếu mọi thứ là bình thường," Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích, "thế thì mặc dù chúng ta cầu nguyện thật nhiều, nhưng những người cầu nguyệnthể không tha thiết lắm. Nhưng bởi vì tôi bệnh, cho nên mỗi lời cầu nguyện là tha thiết. Tất cả chúng ta dâng những lời cầu nguyện thật tha thiết. Thế nên qua cách ấy, có những kết quả tích cực nào đó."

"Bệnh tật là một chất xúc tác làm cho chúng tatinh thần hơn," Ngari Rinpoche thêm vào.

Đối với Đức Đạt Lai Lạt Ma, khổ đau và tai ương là những điều kiện cần thiết cho việc phát triển nhẫn nhụcbao dung. Những phẩm chất này là cần cho sự sống nếu chúng ta muốn giảm thiểu những cảm xúc tiêu cực như thù  hận và ganh tỵ. Khi mọi thứ diễn ra tốt đẹp, chúng ta ít cần đến nhẫn nhụctha thứ. Chỉ khi nào chúng ta gặp phải rắc rối, khi chúng ta khổ đau, như vậy chúng ta mới thật sự học hỏi những đạo đức này. Một khi chúng ta tiếp thu chúng, từ bi tuôn chảy một cách tự nhiên.

"Ông có buồn không khi tôi khởi hành?" Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tôi một cách không ngờ.

"Tôi buồn, vâng," tôi trả lời.

"Ông có nghĩ là Đức Thánh Thiện sẽ không qua khỏi chứ?" Ngari Rinpoche tò mò.

"Không, không. Tôi có một sự tin tưởng nào đó. Thế nào đó tôi biết ngài sẽ không sao,'' tôi trả lời. "Tôi buồn bởi vì ngài trông yếu quá, quá phờ  phạc. Tôi chưa bao giờ thấy ngài yếu đuối như vậy trước đây. Tôi bị sốc quá cũng như những người khác vậy. Và một điều khác nữa. Ngài ôm tôi trước khi rời tu viện Shechen. Tôi thật cảm động với việc ấy. Mặc dù ngài đang đau và có thể đứng dậy khó khăn, nhưng ngài vẫn muốn làm tôi thoải mái, động viên tôi. Bệnh tật như ngài vậy mà ngài vẫn để mắt nhìn đến tôi. Như ngài luôn luôn làm, ngài đã đặt lợi ích của người khác trên lợi ích của chính ngài."

Trích từ quyển THE WISDOM OF FORGIVENESS

Ẩn Tâm Lộ, Friday, December 25, 2015
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2753)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2533)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2229)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2359)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2672)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3250)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2468)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2542)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2716)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2561)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2597)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4102)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3069)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3313)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3004)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2609)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2636)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2750)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3267)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2558)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2132)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2600)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2053)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2941)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2719)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant