Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tự Tình Giêng - Hai

01 Tháng Hai 201711:07(Xem: 7642)
Tự Tình Giêng - Hai

 TỰ TÌNH GIÊNG - HAI


Mặc Phương Tử 

Tự Tình Giêng - Hai

 

Sau những ngày lễ hội Tết Cổ Truyền của Dân tộc, bao ước mơ của con người như đã xanh theo  ngàn nụ biếc và sắc màu hoa cỏ, hương xuân còn níu lại đâu đó giữa bao lớp sóng bụi thời gian, nhưng dòng thời gian cứ lầm lũi trôi chảy mãi đến muôn bến đời lao xao cát bụi, nắng và gió sương.

 

“Tháng Giêng có làn mây trắng

Sương đọng giọt giọt miên man

Ráng chiều đợi mùa bằng lăng

Bâng khuâng ngày cũ chưa tàn.”

 

Có những bước đi vẫn miên man về phía trước, mà bao hoài niệm hôm nào còn vời vợi dấu thời gian như thi sĩ Hồ Dzếnh đã có lần nói lên niềm tâm cảm của mình ;

 

“Chân đi đếm tiếng chuông chùa

Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về.”

 

Mưa bụi tháng Giêng-Hai lất phất như sương như bụi lên mùa viễn xứ, mây trắng chốn quê nhà còn đọng trong sắc nắng bến chiều xa, đâu những cánh diều no gió ước mơ xanh, đâu những luống cải trổ ngồng vàng bay bay gởi hương trong ngàn gió chiều cho thơm trời quê mẹ.v.v...

 

Những bao đợi chờ, những bao hò hẹn, những đăm chiêu đầy hướng vọng xa xôi, những nỗi vui buồn say khướt chìm quên trong chén rượu tàn đông... Để rồi nếu có cố quên đi cho bao cơn mõi mòn lịm dần bên bờ mộng-thực.

 

“Quên đi toan tính đời thường

Giêng-Hai bãng lãng khói sương tự tình”

 

Vẫn biết rằng mọi sự việc cứ như thế mà đến, cứ như thế mà đi, và cái còn ở lại chính là những nỗi niềm nhân thế, nó không ngoài một thân phận của con người, vẫn đến đi, loay hoay chừng ấy bao nỗi cơ hồ nơi cuộc sống. hay rồi dong ruỗi trên bước ngược xuôi, con người còn thấy có chút gì đó trong sự sống, sự tồn tại nơi chính mình và ngay bây giờ. ;

 

“Thuyền chở trăng xưa về bến cũ

Hay mãi rong chơi trăm ngã sông ?

Đêm nay có cánh hồng chợt nở

Lả xuống tim người, vay chút hương !”

 

Nhưng không đâu, trong đời vẫn còn có một điều ở trong ta, trong mọi người, chỉ khi nào tự ta đánh mất đó thôi ! Điều ấy, chính là niềm tin chân thật, hướng thượng, và kiên trú, niềm tinnăng lực giúp cho chúng ta đến để vượt qua, đến để bỏ lại, đến là để kết thúc cuộc trở về, và đến là để thấy, nhận diện  ngay bây giờ ;

 

“Em có hay, chiếc lá thức trên cành

Cây chuyển mạch, dòng đời thay sắc áo

Hoa đương nụ dưới ngàn sương huyền ảo

Cánh chim về chở trĩu ước mơ xanh”

 

Những hạt sương, hạt bụi bên trời, tiếng chim thức trên cành, chiếc lá nõn xanh thắm dần lên sắc màu dâu bể, và muôn trùng màu hoa hương cỏ, phải chăng đây là một diễn trình cho ta thấy biết để cảm nhận đâu là mộng-thực, rồi cứ ở đây, nơi chốn thế gian nầy, mà nhận lấy sự bình an, hạnh phúc, hay đoạ lạc khổ đau, thong thả bình dị, hay bị cột trói hành phạt.v.v...

 

Những ngày Lễ Hội đầu năm, nay đã và đang lần lượt đi qua, mùa Giêng-Hai cũng đương chuyển mạch theo dòng thời gian, như giục giã, như thông báo sắp đến và sắp qua những trạm ga đời, để rồi tiếp nữa ta phải nghĩ gì, làm gì... !? Cầu An, và chúc tụng đầu năm, cầu nguyện qua lời Kinh tụng, sự sinh hoạt vào lễ hội Rằm Tháng Giêng, lễ hội Quán Thế Âm.v.v... Những hình ảnh ấy mang đậm nét văn hoá tâm linh, phần đông người Việt, người Hoa cũng đều biết đến Chùa, Đình, Đền, các Tôn miếu để cầu nguyện cho những ước mơ, những cảm thọ hạnh phúc an vui, và quên đi những nỗi buồn lo sầu muộn, bỏ lại phía sau bao những tháng ngày của năm cũ.

 

Tuy nhiên, cũng hoà theo những truyền thống phong tục, tập quán ngàn đời của Dân tộc, thì trong thời gian Giêng-Hai còn có những Lễ Hội mang tính nhân gian, và tuỳ theo mỗi khu vực, miền, mỗi địa phương khác nhau, như; miền Bắc có Lễ hội Đống Đa, lễ hội Chùa Hương, Lễ hội Cổ Loa, Lễ hội Lim, Lễ hội Yên Tử.v.v... Miền Trung có lễ hội Cầu Ngư.v.v... Miền Nam có Lễ hội Chùa Núi Bà Đen.v.v...

 

Tiếp theo nữa, có Lễ Hội Vía Bồ Tát Quán Thế Âm đến khắp chúng sanh nói chung, và cho những ai có lòng kính tin nơi hạnh nguyện của Ngài nói riêng. Vì nguyện lực hiện hoá đức tánh Từ Bi mầu nhiệm vô biên thân vào nơi thế giới ta bà nầy, cùng với tinh thần vô uý độ tha, luôn lắng nghe, luôn thấy biết : “Từ nhãn thị chúng sanh” (Mắt thương nhìn đời).

 

Không ngoài nguyện lực của chư Phật tiếp độ chúng sanh, thể hiện tinh thần tích cực triết lý nhân sinh với sự hoạt dụng “Thiên thủ thiên nhãn” (Ngàn mắt ngàn tay), với bao ngàn việc, ngàn thấy biết trong cõi đời qua vô vàn âm thanh như một đại hoà tấu mầu nhiệm của vũ trụ vỗ lên ngay trong muôn vàn cuộc sống và sự sống của chúng sanh, như lời ca ngợi tán dương;

 

“Quán Âm Bồ Tát diệu nan thù

Thanh tịnh trang nghiêm luỵ kiếp tu

Thiên sứ hữu cầu, thiên sứ ứng

Khổ hải thường tác độ nhơn châu”

 

(Với công hạnhthù thắng mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, do nhiều đời kiếp chuyên trì công phu tu tập, và như vị thiên sứ, có cầu có ứng hiện hoá tiếp độ, giải trừ những khổ ách, đó là hạnh nguyện của Bồ Tát nơi cõi ta bà uế trược nầy.)

 

Đồng thời, trong thời gian nầy cũng là mùa tưởng niệm Tổ Sư Minh Đăng Quang vắng bóng, vị Tổ sư khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ (Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Việt Nam) từ những năm đầu thập niên 1940 cho đến đầu thập niên 1950. Tổ sư đã vắng bóng vào ngày mùng 01 tháng 02 âm lịch năm Giáp Ngọ (1954) cho đến nay. Sự tiếp thọ ân đức và ân pháp của Tổ sư cũng chính là tinh hoa chất liệu dinh dưỡng lớn mạnh Pháp Thân đối với Giáo lý của chư Phật và chư Tổ hơn bao giờ hết đối với hàng đệ tử xuất giatại gia, dù cho ngàn xưa hay đến cả ngàn sau.

 

Như vậi, mùa Giêng-Hai, qua đó có những Lễ hội, phong tục, tập quán lành mạnh được tôn trọngduy trì, là mùa của bao hướng vọng, ước mơ, tình tự, của những hẹn hò, chờ đợi, kiếm tìm niềm vui hướng về miền chân lạc, dù chỉ là khoảnh khắc thời gian sau những ngày tháng vật vã với cuộc sống áo cơm, với bao nỗi lo toan và bao trang trải giữa đời thường.

 

Sự việc ấy, nay đã trở thành những truyền thống tốt đẹp, một nếp nghĩ, một sức sống đạo đức lành mạnh trong xã hội ngàn đời của quê hương Lạc Việt, nhờ có sự tưới tẩm từ ý thức giáo dục đạo đức trong cuộc sống trước đây, và cũng để tồn tại phát triển nét đẹp văn hoá ngàn đời của Dân tộc cho đến tận bây giờ.

 

Song song với những điều ấy, Đạo Phật đã có mặt, đã hoà nhập trong cộng đồng Tộc Việt, và đã nhanh chóng thổi vào nguồn sinh khí đặc thù tính chất Bi-Trí-Dũng của Đạo Phật, đã góp phần tạo nên một sinh lộ giữa cõi tử sinh, và nơi chốn quê hương ngàn đời đã phải gánh chịu không ít những điều khổ luỵ đau thương từ nhiều nguyên nhân, từ nhiều phía ác kiến tiêu cực của những thế kỷ, thời đại xã hội.

 

Do đó, con đường siêu hoá của Đạo Phật nhằm giúp cho con người nhận biết để đến mục tiêu giác ngộ, thấy rõ bản chất của mọi sự vật hiện tượng, các pháp nhân duyên qua tiến trình sinh-hoá-tiêu-tàn. Nhận thức điều Thiện ác, Nhân quả mà hướng tâm linh đến miền chân lạc để không còn khổ đau. Được sự gia hộ từ những nguyện lực của Chư Phật, chư Bồ tát, chư Thánh Tổ, các bậc tiền Hiền.v.v... Để có được niềm kính tin và an trú nơi chánh pháp, có được sự học hiểu và tu tập theo giáo lý của bậc giác ngộ, có thực hành nhiều về những thiện pháp, và có nhiều phước thiện , cũng như được tăng trưởng nhiều công đức lành nơi cuộc sống nầy.

 

Tự Tình Giêng-Hai, không những chỉ dành cho những Lễ hội truyền thống, những phong tục, tập quánqua những ước mơ cầu mong cho lảnh vực đời thường, mà còn cho cả về mặt đạo đức tâm linh, cốt đem lại sự bình an cho người hiện tiền biết đuọc giá trị siêu hoá đạo đức, chuyển hoá thân tâm, từ bỏ ác nghiệp, thành tựu thiện nghiệp, sống an lạc, hạnh phúc cho đời nầy và đời sau

 

                                                                             Chùa KỲ VIÊN,

                                                                             South Dakota, tháng Giêng 2017.

 

                                                                             MẶC PHƯƠNG TỬ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2753)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2534)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2229)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2359)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2672)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3251)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2468)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2543)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2718)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2562)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2598)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4102)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2775)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3069)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3314)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3004)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2609)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2636)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2750)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3268)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2132)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2601)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2053)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2941)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2720)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant