Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ni Trưởng Ma Ha Ba Xà Ba Đề

19 Tháng Bảy 201705:09(Xem: 7414)
Ni Trưởng Ma Ha Ba Xà Ba Đề

Ni trưởng MA HA BA XÀ BA ĐỀ 
(Mahaprajapati - Mahapajapati) 
(Di mẫu của Phật, người phụ nữ đầu tiên xuất gia và thành lập ni đoàn)

Hạnh Cơ

Ni Trưởng Ma Ha Ba Xà Ba Đề

 

Ma Ha Ba Xà Ba Đề, vì là di mẫu của Phật, nên thường được gọi một tên đặc biệt là Kiều Đàm Di (Gautami - Gotami), có nghĩa là con gái của dòng họ Cồ Đàm. Bởi vậy, có lúc tên bà đã được gọi một cách đầy đủ là Ma Ha Ba Xà Ba Đề Kiều Đàm Di.

Bà là em ruột của hoàng hậu Ma Ha Ma Da (Mahamaya). Cả hai bà đều là em của của vua Thiện Giác (Suprabuddha - Suppabuddha) trị vì vương quốc Câu Lị. Sau khi sinh thái tử Tất Đạt Đa được bảy ngày thì hoàng hậu Ma Da băng, bà liền được vua Tịnh Phạn tuyển vào cung và đưa lên ngôi hoàng hậu, có trách nhiệm nuôi dạy thái tử (1). Bà đã thương yêu thái tử như chính con ruột của mình. Năm thái tửđược mười bốn tuổi, bà sinh hoàng tử Nan Đà (Nanda) (1), và năm sau thì bà sinh công chúa Tôn Đà Lị Nan Đà (Sundari Nanda).

Năm thứ năm sau ngày Phật thành đạo, vua Tịnh Phạn băng. Đức Phật đã về kịp để thuyết pháp cho đức vua nghe trước giờ lâm chung. Sau đó, đích thân Ngài chủ lễ trà tì của đức vua. Tang lễ xong, Ngài còn lưu lại Ca Tì La Vệ ba tháng để hóa độ dân chúng quanh vùng. Trong thời gian đó, Ngài ngự tại công viên Ni Câu Đà (Nyagrodha - Nigrodha), cách kinh thành khoảng hai dặm về hướng Nam.

Một hôm, thái hậu Kiều Đàm Di đến vườn Ni Câu Đà cầu xin Phật cho bà và phái nữ được xuất gia, vì thấy chưa đến lúc thuận tiệnđức Phật không chấp thuận. Bà khẩn cầu đến ba lần, Ngài vẫn từ chối. Bà buồn bã trở về cung. Sau đó đức Phật rời Ca Tì La Vệ và đi đến hành hóa tại thành Tì Xá Li (Vaisali - Vesali) (2) ngự tại tu viện Trùng Các (Kutagarasala) trong rừng Đại Lâm (Mahavana).

Trước đây, các phụ nữ ở thành Vương Xá cũng đã từng xin Phật cho xuất gia như nam giới, và Phật đã không chấp thuận. Khi Ca Diếp đi xuất gia, ông cũng đã xin Phật cho vợ ông được xuất gia, nhưng Phật bảo là chưa đúng lúc. Bây giờ, tại Ca Tì La Vệ, ngoài thái hậu Kiều Đàm Di, còn có rất đông các mệnh phụ trong dòng Thích Ca cũng muốn xuất gia. Dù đã bị Phật từ chối, nhưng ý chí xuất gia của họ không suy suyển. Bởi vậy, sau khi từ vườn Ni Câu Đà trở về cung, thái hậu đã nảy ra một ý kiến táo bạo. 

Bà đề nghị vói tất cả những mệnh phụ còn có ý muốn xuất gia, hãy tự mình xuống tóc, cởi bỏ tất cả quần áo xa hoa và đồ trang sức, khoác y vàng, chân không giày dép, cùng nhau đi bộ đến thành Tì Xá Li để xin Phật cho xuất gia. Tất cả mọi người đều vui vẻ thi hành đề nghị của thái hậu. Họ mặc nhiên coi bà là vị lãnh đạo của họ. Chuẩn bị xong đâu đấy bà dẫn mọi người rời Ca Tì La Vệlên đường tiến về Tì Xá Li, cách đó khoảng bốn trăm cây số về hướng Đông Nam. Bà Da Du Đà La cũng muốn xuất gia, nhưng thái hậu không cho bà đi theo trong chuyến này; bảo ở lại hoàng cung để chờ xem tin tức thế nào rồi sẽ đi sau.

Sáng sớm hôm ấy, khi vừa bước ra ngoài, tôn giả A Nan liền trông thấy thái hậu và đoàn người của bà đang đứng bên ngoài cổng tu viện. Tất cả đều cạo sạch tóc, khoác y vàng lấm đầy bụi đất, chân khônggiày dép, lại sưng vù, rướm máu. Tôn giả lấy làm kinh ngạc, liền đến hỏi thăm sự tìnhThái hậu nói:

- Thưa đại đức A Nan! Chúng tôi đã xuống tóc, đã bỏ hết đồ trang sức và mọi tiện nghi vật chất của đời sống thế tục, đi bộ đến đây. Trong thời gian gần hai mươi ngày qua, chúng tôi đã xin ăn dọc đường, ban đêm ngủ dưới gốc câyChúng tôi muốn chứng tỏ rằng, giới phụ nữ chúng tôi cũng có quyết tâm và có khả năng sống đời sống xuất gia. Xin đại được tìm lời khéo léo bạch giùm với đức Thế Tôn, xin chấp thuận cho phái nữ chúng tôi được xuất gia.

Tôn giả rất cảm động, hứa sẽ tận lực giúp thái hậuTôn giả vào tịnh thất của Phật trong khi thái hậu vẫn đứng bên ngoài chờ đợi.

Tôn giả trình lên Phật những gì vừa được thấy và được nghe, và xin Phật cho thái hậu và các bà mệnh phụ được xuất gia. Phật im lặngTôn giả lại bạch:

- Bạch Thế Tôn! Người phụ nữ, nếu đã từ bỏ đời sống gia đình để sống đời sống không nhà cửa, tinh cần tu tập theo giáo pháp và giới luật, có khả năng chứng ngộ được các thánh quả Tu đà hoàn, Từ đà hàm, A na hàm, hay A la hán không?

Đức Phật dạy:

- Này A Nan! Người nữ xuất gia cũng có khả năng chứng ngộ các thánh quả.

Được khích lệ bởi lời dạy ấy, tôn giả đã đem hết lí lẽ, trọn tình, trọn lí, khẩn thiết trình bày lên Phật, cố xin giùm cho thái hậu và phái nữ được xuất giaNhận thấy đã đến lúc thích hợpđức Phật bảo cho tôn giả A Nan biết, nếu thái hậu và đoàn người theo bà chấp nhận thi hành trọn vẹn pháp chế tám điểm (3) họ sẽ được phép xuất gia làm tì kheo ni.

Tôn giả rất hoan hỉ, liền ra ngoài thông báo lời dạy của Phật cho thái hậu và các bà được biết. Thái hậuvà tất cả mọi người đều vui mừng chấp nhận tuân hành pháp chế tám điểm. Thế là ngay sau đó, thái hậu Kiều Đàm Di và đoàn người của bà được thọ đại giớitrở thành các vị tì kheo ni đầu tiên của giáo đoàn Phật. Với sự kiện này, đức Phật được coi là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thành lập một đoàn thể xuất gia cho nữ giới với đầy đủ giới luật.

Kể từ đó, đệ tử của Phật gồm có bốn chúng: tì kheo, tì kheo ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữNi sư Kiều Đàm Di đã được Phật chỉ định làm ni trưởng để lãnh đạo mọi việc thuộc ni đoàn. Tôn giả Xá Lợi Phất được Phật ủy thác cho trách nhiệm hướng dẫn ni đoàn về những sinh hoạt căn bản buổi đầu của đời sốngxuất gia.

Ni sư đã được đức Phật trực tiếp giảng dạy cho phep tắc tu học, và sau đó không lâu, ni sư đã đắc quảA la hán. Tiếp đó, các ni sư cùng xuất gia một lần với bà cũng đều chứng quả A la hán.

Với trách nhiệm ni trưởngni sư Kiều Đàm Di đã hoạc định về cách phục sức cho ni chúng, và vận độngcác vị thí chủ giúp đỡ để xây cất các trung tâm tu học cho ni đoàn. Uy tín của ni sư rất lớn, cho nên chẳng bao lâu, các ni viện đã lần lượt được tạo lập tại các nơi như Tì Xá LiCa Tì La VệXá Vệ v.v… Ni sư đã dìu dắt hàng ngàn ni chúng vào nếp sống nghiêm túc, tinh cần, và rất đông trong số họ đã thành công trong sự tu họcđức Phật rất hoan hỉ và nhiều lần khen ngợi.

Ni sư Kiều Đàm Di viên tịch trước Phật khoảng 18 năm (4).

CHÚ THÍCH

(1) Có sách nói, vua Tịnh Phạn đã cưới hai chị em bà Ma Ha Ma Da cùng một lúc; bà Ma Da được tấn phong ngôi hoàng hậu, còn bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề thì làm thứ hậu. Khi bà Ma Da sinh thái tử Tất Đạt Đa thì bà Ba Xà Ba Đề cũng sinh hoàng tử Nan Đà. Sau khi bà Ma Da băng thì bà Ba Xà Ba Đề được đưa lên ngôi hoàng hậu. Bà lãnh trách nhiệm nuôi dạy thái tử Tất Đạt Đa thay cho chị; còn hoàng tử Nan Đà thì bà giao cho một bà vú chăm sóc.

(2) Thành Tì Xá Li tức là thành Quảng Nghiêm, là nơi cư trú của bộ tộc Lê Xa (Licchavi), và là thủ đô của vương quốc Bạt Kì (Vrji - Vajji). Bạt Kì là một chủng tộc lớn, do tám tiểu quốc họp lại làm thành, lấy bộ tộc Lê Xa làm chủ. Đó là một nước đã áp dụng chế độ cộng hòa sớm nhất trên thế giới. Vào thời Phật tại thế, Bạt Kì là một trong những nước lớn và hùng mạnh nhất ở Ấn Độ. Kinh đô Tì Xá Li là một thành phố thương mại phồn thịnh. Tơ lụa và trầm hương ở đây rất nổi tiếng, được tất cả các vương quốc đương thời yêu chuộngTì Xá Li cũng là nơi hành đạo quan trọng của Phật và giáo đoàn, ngang với các thành Vương Xá và Xá Vệ. Đó cũng là nơi kết tập kinh điển lần thứ hai của bảy trăm vị A la hán sau khi Phật diệt độ một trăm năm.

(3) Pháp chế tám điểm, danh từ Phật học Hán Việt gọi là “Bát Kính Pháp” (hoặc “Bát Kính Giới”), gồm có:

1.- Một vị tì kheo ni luôn luôn phải cung kính đứng dậy và chào hỏi một vị tì kheo, dù vị tì kheo ni ấy có lớn hơn vị tì kheo rất nhiều về tuổi đời lẫn tuổi đạo

2.- Đến mùa an cư hàng năm chúng tì kheo ni phải tìm đến an cư tại nơi nào có chúng tì kheo an cư để nương tựa và học hỏi.

3.- Đến kì bố tát (lễ tụng giới và phát lồ sám hối của chư tăng ni) mỗi nửa tháng, chúng tì kheo ni phải cử người đến xin chúng tì kheo chỉ định ngày giờ bố tát và cử người sang giáo huấn và khích lệ việc tu họccủa ni chúng.

4.- Vào ngày kết thúc mùa an cư, mỗi tì kheo ni phải thọ lễ tự tứ (người khác nói ra lỗi của mình, mình nhận lỗi và sám hối) trước chúng tì kheo lẫn chúng tì kheo ni.

5.- Khi phạm giới luật, vi tì kheo ni phải sám hối trước tăng chúng lẫn ni chúng.

6.- Những sa di ni đã thọ đại giới “thức xoa ma na” (sáu giới tập sự để chuẩn bị thọ đại giới) hai năm, phải cầu xin thọ đại giới trước cả hai chúng tăng và ni.

7.- Dù trong bất cứ trường hợp nào, tì kheo ni cũng không được quyền khiển trách hay nói nặng lời đối với tì kheo.

8.- Tì kheo ni không được vạch lỗi tì kheo; ngược lại, tì kheo được nói lỗi của vị tì kheo ni.

Những giới điều trên đây chỉ hoàn toàn dành cho người xuất gia, cho nên có một vài điều người tại giakhông thể hiểu được. Lại nữa, những giới điều trên xem ra như có tính cách kì thị đối với nữ giới, nhưng sự thực thì không phải như vậy. Vào thời kì đó của xã hội Ấn Độ, việc đưa nữ giới vào đoàn thể xuất giarất là khó khăn, hầu như không thể nào xảy ra được. Đã có một tuyết tâm cách mạng xã hội, nhưng cũng phải đợi thời cơ, phải một thời gian chuẩn bị tâm lí quần chúng. Khi thời cơ đã đến, đức Phật đã đưa “bát kính pháp” ra như là một cánh cửa phương tiện hoàn hảo để vừa có thể cho nữ giới gia nhậpgiáo đoàn, vừa có thể tránh được những trở ngại từ bên trong nội bộ cũng như từ bên ngoài xã hộiTôn giả Xá Lợi Phất đã nói: “Tám điều này đưa ra với mục đích là mở được cửa cho giới phụ nữ đi vào giáo đoàn

Mục đích của nó không phải là kì thị, mà chính là để chấm dứt kì thị. Điều cốt yếu là phụ nữ được xuất gia”. Chính ni trưởng Kiều Đàm Di cũng nhận rõ: “Pháp chế tám điểm đó không phải là những trở ngại cho sự tu học của chúng tôi, mà chính là cửa ngõ cho chúng tôi được đi vào … Đó không phải là những điều kì thị nữ giới mà lại là những phương tiện bảo vệ và che chở cho giáo đoàn, trong đó có nữ giới". Bởi vậy, sau khi việc xuất gia của nữ giới đã trở thành sự thật, và khi nếp sống ni chúng đã trở nên nề nếp qui củ, thuần thục rồi, thì “bát kính pháp” sẽ không còn cần thiết nữa; vì ni chúng cũng đã có giới luật một cách đầy đủ và rõ ràng. Sự việc cả ngàn vị tì kheo ni thời Phật tại thế, sau một thời gian tu họctinh cần, đã đắc quả A la hán, đã nói lên đầy đủ ý nghĩa đó.

(4) có sách nói ni trưởng Kiều Đàm Di viên tịch trước đức Phật ba tháng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2220)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2522)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2346)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2661)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2434)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2534)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2536)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2193)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3046)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2647)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2706)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2988)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2589)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4086)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3064)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3305)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2286)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2999)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2605)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2628)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2475)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2685)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3265)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2594)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2050)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2902)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2937)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2707)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2508)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant