Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tu Học So Với Hành Thiền

12 Tháng Chín 201704:47(Xem: 5578)
Tu Học So Với Hành Thiền

TU HỌC SO VỚI HÀNH THIỀN
Hai yếu tố này bổ sung hay cạnh tranh với việc tu tập?

Gyalten Deying -  Võ Thư Ngân 

 Tu Học So Với Hành Thiền

Đối với một người quan tâm đến thành tựu giác ngộ thì việc tu học có quan trọng hay không? Một số dòng truyền thừa đặt nặng việc hành thiền hơn tu học, và nói rằng không cần thiết phải tu học, vì điều này chỉ khiến tâm tràn đầy tư tưởng, và tư tưởng thì không phải là thiền. Tạp chí Mandala đã chọn lựa và trưng cầu ý kiến cùng sự quan sát của một số lạt ma, học giảhành giả.

 

Chúng tôi bắt đầu với Nick Ribush nói chuyện với Choden Rinpoche, để xin Ngài ban cho lời khuyên uyên bác. Choden Rinpoche, Losang Gyalten Jigdrel Wangchuk, là người có kỷ lục tu học oanh liệt vào thời trẻ, và sau đó, ngài đã nhập thất trong 19 năm. 

 

Choden Rinpoche: Quá trình được đề ra là trước hết, lắng nghe giáo pháp, rồi tư duy về những gì con đã nghe, rồi thiền quán về những điều này. Vì vậy, điều quan trọng lúc đầu là đi tìm một vị thầy uyên bác để tu học với vị này; rồi phân tích bất kỳ điều gì con đã nghe bằng biện chứng hợp lý, đó là việc tư duy; rồi chú tâm nhất điểm vào những điều con đã thiết lập sau quá trình phân tích, điều mà trong bối cảnh này gọi là hành thiền. Thế thì ba điều này phải đi theo thứ tự: văn, tư, tu. Cả hai vị Phật, Đức Thích Ca Mâu NiĐức Di Lặc đều nói như vậy.

 

Nick Ribush: Thế thì nếu không có cả hai yếu tố tu học và hành thiền, chúng ta không thể đạt được giác ngộ, phải không ạ?

 

Choden Rinpoche: Điều quan trọng là thiền quán về bất cứ điều gì con đã học hỏi. Nếu không làm như vậy thì những gì con đã học sẽ không giúp ích gì cho tâm mình.

 

Nick Ribush: Xin cảm ơn Rinpoche. Trước tiên, chúng ta nên lắng nghe những giáo pháp gì?

 

Choden Rinpoche: Điều này còn tùy vào hình thức tu học mà con dự định sẽ thực hiện. Nếu đó là chương trình tu học sâu rộng thì con nên theo gương của chư Tăng trong các tu viện lớn của Sera, Drepung và Ganden, nơi mà các Thầy nghiên cứu năm môn học chính [Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita), triết lý Trung đạo (Madhyamaka), Lượng học (pramana), A tỳ đạt ma (abhidharma) và giới luật (vinaya)] qua nhiều năm, hay thậm chí suốt đời. Ở mức độ tu học trung bình thì con có thể chú trọng vào những tác phẩm như Bồ Tát Hạnh (Guide to the Bodhisattva's Way of Life) của ngài Tịch Thiênluận giải về sách này, cũng như Toát Yếu Tu Tập (Compendium of Training). Nếu không có nhiều thời giờ thì con có thể nghiên cứu Lam-rim.

 

Nick Ribush: Hành thiền có phải là một phần trong việc đào tạo chư Tăng tại các tu viện lớn, theo sau chương trình tu học lâu dài không?

 

Choden Rinpoche: Việc hành thiền không phải là một phần của chương trình tu học chính quy, nhưng có những vị sư vừa tu học, vừa hành thiền. Họ thiền quán về những gì họ đã học, học và hành nên đi đôi với nhau. Ban ngày, chư Tăng học thuộc lòng, rồi trì tụng những gì họ đã học thuộc lòng vào buổi chiều, và sau đó, thiền quán về những gì họ đã học vào buổi tối. Đa số các tu việnluật lệ là sau khi vị sư quản giáo kỷ luật đã ra dấu hiệu vào buổi tối thì mọi người sẽ phải ngưng trì tụng, để không làm phiền những nhà sư đang hành thiền. Thậm chí, họ không được mang giày khi đi lại. Vậy là tuy việc hành thiền không phải là phần bắt buộc hay thuộc về chương trình tu học, nhưng chư Tăng được khuyến khích hành thiền, và tu viện cũng tạo ra điều kiện thuận lợi để họ có thể hành thiền.

 

Nick Ribush: Các tu viện lớn có các bậc thầy là thiền giả hay hành giả du già (yogi) để hướng dẫn chư Tăng hành thiền hay không?

 

Choden Rinpoche: Có, và bất cứ điều gì chư Tăng được dạy là để nhắm vào việc hành thiền. Họ học hỏi về tánh Không là để thiền quán về đề tài này, về thiền chỉ là để hành thiền, vân vân…

 

Nick Ribush: Tuy nhiên, những người có công việc, gia đình và không có nhiều thời gian thì nên chú trọng vào Lam-rim?

 

Choden Rinpoche: Đúng, nhưng ngay cả sách Lam-rim cũng có bộ dài, bộ trung bình và bộ ngắn, và những ai có công việc và gia đình thì có thể gặp khó khăn với những bộ dài hơn. Những bộ Lam-rim ngắn như Giải Thoát Trong Lòng Bàn Tay (Liberation In The Palm Of Your Hand), Đường Tu Nhanh Chóng (Swift Path), hay Đường Tu Cực Lạc (Blissful Path), có thể thích hợp với những người có ít thời giờ.

 

Nick Ribush: Những người bận rộn nên thiền quán như thế nào về tác phẩm Lam-rim mà họ đã học hỏi?

 

Choden Rinpoche: Họ phải dành thời giờ để hành thiền và tu tập. Ở Tây Tạng thì không có thời gian dành riêng cho công việc. Người ta tự sắp xếp giờ giấc sinh hoạt và dành một thời gian dài hay ngắn cho mọi việc, tùy theo ý muốn. Họ có thể tu tập một vài tiếng vào buổi sáng, trước khi đi làm, nhưng ở đây, các con phải đi làm đúng giờ giấc theo ý muốn của cấp trên, nên phải sắp xếp thời gian theo cách tốt nhất, ví dụ như tu tập một tiếng trước giờ đi làm và một tiếng sau khi tan sở.

 

Nick Ribush: Những người tu tập như vậy có thể nào có thực chứng hay không?

 

Choden Rinpoche: Có thể chứ. Nếu như tu tập liên tục thì con sẽ ngày càng quen thuộc hơn với pháp tu đó, và hành thiền rất dễ dàng. Nhờ vậy mà con có thể có chứng ngộ.

 

Nick Ribush: Những người tu tập Lam-rim theo cách như vậy thì nên sắp xếp bài thiền quán như thế nào?

 

Choden Rinpoche: Chẳng hạn như con khởi đầu với bài thiền quán về kiếp người hoàn hảo thì hãy bỏ nhiều thời giờ hơn cho đề mục này, rồi dùng ít thời giờ cho toàn bộ những đề mục khác. Làm như vậy thì con có thể thiền quán toàn bộ đường tu. Khi đã quen thuộc với đề mục kiếp người hoàn hảo thì hãy bỏ nhiều thời gian cho đề mục kế tiếpvô thường và cái chết, rồi bỏ ít thời giờ cho mỗi một đề mục còn lại. Sau đó, khi đã quen thuộc với đề mục thứ nhì thì hãy chuyển sang đề mục kế tiếp. Tuy nhiên, trước khi thiền quán về Lam-rim thì nên hành trì các pháp tu sơ khởi, để tịnh hóa tâm mình và tích tập công đức.

 

Nick Ribush: Làm sao mà kiến thức sách vở trở thành vô niệm? Tâm sẽ chuyển hóa như thế nào?

 

Choden Rinpoche: Phải mất một thời gian dài thì tâm mới trở thành vô niệm. Đối với phàm nhân thì nhận thức vô niệm duy nhất là các thức của ngũ quan. Ý thức thì chủ yếu là vọng niệm. Chúng ta biết được những điều mà mình biết là nhờ nhận thức bằng suy luận: “Nó như vầy là vì nó như thế kia.”. Điều này cũng là vọng niệm.

 

Nick Ribush: Một số người nói rằng nên dừng tâm vọng niệm và cứ để cho tâm nghỉ ngơi trong trạng thái vô niệm. Điều này có sai không?

 

Choden Rinpoche: Có lẽ một số người nói như thế, nhưng khi nghiên cứu những tác phẩm Phật học lớn, các kinh điểnluận giải thì nó không phải như vậy. Chỉ vì niệm tưởng đã ngưng, không có nghĩa là tâm con đã trở thành vô niệm. Khi thực hành thiền định thì con sẽ chú tâm vào một đối tượng. Khi đó, đúng là con không được suy nghĩ bất cứ điều gì, mà phải ngưng mọi niệm tưởng, ngay cả các niệm thiện, bởi vì chúng cũng quấy nhiễu định tâm của mình, nhưng khi làm được như vậy thì không có nghĩa là tâm con đã trở nên vô niệm.

 

Nick Ribush: Thưa Rinpoche, khi hành thiền ở Lhasa suốt bao nhiêu năm trời thì ngài đã tu tập pháp thiền nào?

 

Choden Rinpoche: Tôi ở trong ngôi nhà đó hơn 20 năm, nhưng không liên tục hành thiền. Tôi đã trì chú, hành thiền chút ít và tu tập các pháp tu khác, nên không có thực chứng về đại định hay bất cứ điều gì tương tự như vậy. Nếu muốn có thực chứng về đại định thì phải tìm một nơi thích hợp để hành thiền. Ngôi nhà ấy không phải là nơi thích hợp, vì tôi không biết khi nào thì công an Trung Quốc sẽ đến nhà. Họ sẽ đến một cách bất ngờ vào bất cứ lúc nào, ngày hay đêm, không hề báo trước, nên tôi luôn luôn có sự nghi ngờ, “Khi nào thì họ tới? Họ sẽ làm gì đây?”, nên tâm trí không đủ thư thả để chú tâm vào đối tượng 100%, vì nếu muốn chứng ngộ đại định thì phải làm được như vậy.

 

Nick Ribush: Ngài có điều gì để nói thêm về mối quan hệ giữa tu học và hành thiền không, thưa Rinpoche?

 

Choden Rinpoche: Nếu muốn hành thiền thì điều quan trọng là phải nghiên cứuhọc hỏi. Nếu không học hỏi thì không có cách nào để hành thiền. Tùy ý con muốn học hỏi nhiều, học vừa phải hay chút ít thôi, nhưng khi thực hành bất cứ pháp thiền nào, dù là thiền quán hay thiền định thì con phải biết mình sẽ thiền về cái gì. Nếu như không biết đối tượng thiền thì không có cách nào để hành thiền về nó, và nếu cố làm như vậy thì con sẽ giống như người mà Đức Sakya Pandita mô tả: người cụt tay đi leo núi. 

 

Nick Ribush: Vậy thì chúng ta không thể đạt giác ngộ, nếu như không thực hiện cả hai việc tu học và hành thiền?

 

Choden Rinpoche: Điều quan trọng là thiền quán về bất cứ điều gì con học hỏi. Nếu không thì những gì học được sẽ không giúp ích cho tâm con bao nhiêu. Đúng là một vài vị thầy ở Tây Tạng và những nơi khác nói rằng con không cần tu học, chỉ cần hành thiền thôi. Họ cho rằng những người tu học chỉ hiểu biết các pháp như cách một người ăn xin biết đến của cải, trong khi những ai hiểu biết nhờ hành thiền thì giống như những người giàu sang, có của cải. Tuy nhiên, văn, tư, tu rất quan trọng. Cả ba yếu tố nên được phối hợp với nhau, bởi vì chúng bổ sung cho nhau.

 

Choden Rinpoche được phỏng vấn tại Trung Tâm Kurukulla, Massachusetts, ngày 19 tháng 11, 2004. Thubten Damchoe thông dịch và Nick Ribush hiệu đính.

 

 

CHODEN RINPOCHE

 

Sinh năm 1931 ở miền Đông Tây Tạng, Choden Rinpoche, Losang Gyalten Jigdrel Wangchuk, lúc 3 tuổi đã được thừa nhận là vị tái sinh của Choden Rinpoche đời trước, người đã từng là một ứng viên cho việc chọn lựa Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 12. Khi lên tám, ngài tu họcTu Viện Rabten, và năm 15 tuổi, ngài gia nhập Tu Viện Sera Je, nơi ngài đã tu học năm kinh sách chính.                                                                                                                                                                      Dù Rinpoche đã học xong lớp Lharam và có thể trở thành một Geshe, nhưng sư phụ của ngài bảo ngài khoan dự kỳ thi. Choden Rinpoche quyết định nghiên cứu giáo pháp về Giới luật (vinaya), và ngài được xem là một trong những học giả uyên bác về môn học này. Choden Rinpoche là một trong hai vị lạt ma của Sera Je được tuyển chọn để biện kinh với Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong kỳ thi tốt nghiệp văn bằng Geshe của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

 

Trong thời gian Cộng sản Trung Hoa chiếm Tây Tạng năm 1959, Choden Rinpoche sống ở Tây Tạngnhập thất 19 năm. Ngài không bao giờ ra khỏi gian phòng nhỏ bé và tối tăm ở Lhasa, từ 1965 đến 1985, và vì lý do này, hoàn toàn không được biết đến ở tu viện của mình. Năm 1985, ngài được phép rời Tây Tạng để đến Ấn Độ, và từ đó, đã giảng dạy hàng ngàn tăng sinh ở Tu Viện Sera Je tại Nam Ấn qua nhiều năm. Với lời thỉnh cầu của Lama Zopa Rinpoche, hiện nay, Choden Rinpoche đã viếng thăm các nước Tây phương một vài lần để hoằng pháp và hướng dẫn các khóa nhập thất.

 

Nguyên tác Anh ngữ: Tạp chí Mandala tháng 2/tháng 3, 2005

Gyalten Deying chuyển Việt ngữ; Võ Thư Ngân hiệu đính

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13788)
Loài cỏ bệnh úa tàn thân xác, Đã gầy hao từ gốc rễ cằn khô, Chắc tại nắng, tại mưa, tại bao điều khác, Nằm co ro đợi chết đến giờ
(Xem: 11253)
Trước khi khởi sự tu tập để phát huy lòng từ bi và tình thương, cũng cần nên tìm hiểu ý nghĩa của hai chữ ấy là gì...
(Xem: 11454)
Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy Phật tánh nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sanh tử.
(Xem: 9887)
Phàm những gì có hình tướng thì tất cả đều bị chi phối bởi sự vô thường, mà đã vô thường thì nguyên nhân chính của nó là khổ...
(Xem: 11362)
Lúc ấy Đức Thế Tôn đã ôn tồn mà nói cùng đại chúng: “Này A Nan! sau khi ta diệt độ các ông hãy nương tựa vào chính mình và hãy lấy giới luật làm thầy.”
(Xem: 9157)
Tất cả những giáo lý của Đức Phật căn cứ trên Bốn Chân Lý Cao Quý. Trong giáo lý Bốn Chân Lý Cao Quý chúng ta nhận ra hai tập hợp của nguyên nhân và hệ quả.
(Xem: 9736)
Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần , nhất là việc tu tập v.v...
(Xem: 9813)
Một trong bốn chân lýĐức Phật dạy là chân lý về sự khổ, khổ đế trong Tứ diệu đế. Đức Phật dạy bản chất của thế gian là bất toàn, bất toại nguyện, là vô thường, là đau khổ.
(Xem: 13791)
Chẳng có gì đơn độc sinh ra, tồn tại, chuyển động, và biến mất giữa cõi đời. Chẳng có gì gọi là độc hành, độc lập, độc bộ, độc cư, cô thân, cô độc, cô đơn…
(Xem: 9813)
Đâu hay tất cả đều là sự công bằng tuyệt đối khi ta soi vào nhân duyên nghiệp báo không chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứvị lai được giải thích cặn kẽ trong kinh điển nhà Phật.
(Xem: 12893)
Vận nước như dây quấn, Trời Nam mở thái bình, Vô vi ở điện các, Chốn chốn dứt đao binh...
(Xem: 9894)
Trong giáo lý của đạo Phật, “cho sự không sợ hãi” được xem là một hạnh nguyện cao quý gọi là vô úy thí (abhada-dàna), là Thánh hạnh (Ariya-cariyà), thiện hạnh (kusala- cariyà)
(Xem: 10441)
"Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại..."
(Xem: 17210)
Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ - Trôi chảy mãi ngày đêm không ngừng nghỉ như thế này ư?
(Xem: 9354)
"Từ lúc này cho đến hết ngày hôm nay, tôi sẽ đưa vào sự thực tập những gì tôi tin tưởng một cách tối đa như tôi có thể"...
(Xem: 10573)
Khi trải qua một cơn bạo bệnh hay tuổi đã xế chiều thì ý niệm về lão-bệnh-tử, tức phải đối mặt với sự chết hiện ra ngày một rõ ràng hơn...
(Xem: 14238)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10002)
Tôi đến chùa Viên Đức, Đức quốc vào thứ 6, tưởng là sớm, tới nơi lúc 22 giờ 30 Phật tử đã đông nghẹt, mọi phòng đều chật cứng nằm xếp lớp...
(Xem: 11459)
“Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó."
(Xem: 9285)
Sau khi quy y Tam bảo, trở thành Phật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật.
(Xem: 11388)
Đọc trong “Tưởng Niệm và Tri Ân,” người đọc sẽ thấy nhà thơ trẻ của chúng ta lúc nào, ở đâu và đối với bất cứ điều gì cũng nghĩ đến ân đức và tình nghĩa.
(Xem: 10860)
Bài phát biểu của của đô đốc William McRaven, người đứng đầu Bộ chỉ huy Các chiến dịch liên hợp đặc biệt - NAVY SEAL - MỸ
(Xem: 14596)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 10575)
John Stuart Mill: “Tôi đã học cách tìm hạnh phúc bằng cách giới hạn các ham muốn của mình hơn là nỗ lực để thỏa mãn chúng”
(Xem: 9394)
Có lẽ ngày nay nhân loại đã thực sự thức tỉnhnhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai...
(Xem: 13447)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 9796)
“Người ngu thấy là ngọt, Khi ác chưa chín muồi; Ác nghiệp chín muồi rồi; Người ngu chịu khổ đau”.
(Xem: 14000)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 20296)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 10222)
Ta giao tiếp với bạn bè điều tối kỵ nhất là nói về lợi và đừng bao giờ dùng thủ thuật về lợi để mưu cầu.
(Xem: 8657)
Bệnh tật là một nỗi khổ căn bản của chúng sanh, sanh lão bệnh tử khổ. Hễ có thân thì có bệnh, mà đã bệnh tật đau yếu thì không ai muốn và chẳng vui chút nào.
(Xem: 9724)
Nghiệp là một thói quen được tích lũy từ ba nghiệp thân, khẩu, ý, đồng hành với chúng ta trong từng hơi thở, gắn bó thủy chung từ khi ta vừa lọt lòng mẹ cho đến ngày ta nhắm mắt xuôi tay.
(Xem: 8775)
... những câu chuyện buồn và bất hạnh bao giờ cũng để lại những vết khắc sâu thẳm trong tim, khó mà nguôi ngoai dễ dàng.
(Xem: 11027)
Chúng ta đến đây với những giọt nước mắt để hết sức mở một con đường, để rẽ sóng mà đi trên biển đời vô tận.
(Xem: 12541)
Phật tử, chúng ta cần phải nhận định rõ ràng, đức Phật không phải là một vị thần hay thượng đế để ban ơn, giáng họa cho bất cứ ai.
(Xem: 28083)
Tôi tin rằng mọi khổ đau đều sinh ra từ ngu muội. Người ta gây ra đau đớn cho người khác, khi ích kỷ theo đuổi hạnh phúc hay thỏa mãn riêng mình...
(Xem: 10632)
Một vài chiếc thuyền máy lướt qua, tạo những vòng sóng từ nhỏ đến lớn, tỏa ra rồi tan biến trên mặt hồ. Bọt trắng lao xao nổi bật trên giòng nước xanh.
(Xem: 9798)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đềgiác ngộ thành Phật.
(Xem: 11851)
Nhờ chút công đức phóng sanh ngày ấy cho mẫu thân mà tôi cũng được hưởng phước lây, bởi căn bệnh lạ tôi phải chịu đựng 25 năm qua bỗng dưng ra đi không nói lời từ biệt.
(Xem: 10444)
Sống làm sao cho cuộc đời trở nên đáng sống, có ý nghĩa, có lý tưởng, có thương yêu hiểu biết thì đó là Đời Đạo.
(Xem: 8901)
Nhà Phật thường nêu châm ngôn “Bi – Trí – Dũng” để khuyến khích hành giả vận dụng đầy đủ ba đức tính này trong đời sống, không để khiếm khuyết mặt nào.
(Xem: 10555)
Tôi ngồi lặng lẽ, nhìn những lá phong vàng sậm và đỏ ối, âm thầm rơi trong không gian tinh mơ quanh khu nhà quàn. Thấp thoáng vào, ra, là những người chít khăn tang trắng, gương mặt phờ phạc, buồn rầu.
(Xem: 8927)
Cuộc đời của đức Phật rất vĩ đại, vô vàn những điều hay, chúng ta không tài nào học hết được.
(Xem: 9907)
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương y vô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever.
(Xem: 9568)
Ngọn núi cao như Hy Mã Lạp Sơn cũng từ một hạt bụi mà thành. Đại dương mênh mông như Biển Thái Bình cũng do từng giọt nước mà có.
(Xem: 13967)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 16140)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 11765)
Hoan hỷ trong mùa Phật Đản đang về, xin cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc Thầy vĩ đại của thế gian, bậc trí tuệ tối thắng không ai bằng.
(Xem: 9053)
Tham lam cũng giống như áng mây mù dày đặc nhưng đôi lúc chúng ta thường gặp ở miền đồi núi, khiến chúng ta không thấy rõ đường đi trước mặt mình.
(Xem: 17696)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant