Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chướng Ngại Người Tu Là Con Mắt Thứ Hai

26 Tháng Chín 201718:26(Xem: 5703)
Chướng Ngại Người Tu Là Con Mắt Thứ Hai

CHƯỚNG NGẠI NGƯỜI TU LÀ CON MẮT THỨ HAI

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Chướng Ngại Người Tu Là Con Mắt Thứ Hai


   Nói đến con mắt thứ hai là nói đến cái thấy phân biệt của con mắt. Có ba người đi chợ cùng ghé vào hàng vải để mu, nhìn xấp vải cô A khen đẹp, chị B lại chê xấu, thím C thì thấy không đẹp mà cũng không quá xấu. Đẹp hay xấu tùy theo cách nhìn và sự phân biệt của mỗi người, vì sự hiểu biết, nhận thức không ai giống ai, nên có đẹp xấu khác nhau là vậy. Trong mỗi người chúng ta, ai cũng có hai con mắt, nhưng con mắt nào là mắt chánh, con mắt nào là con mắt thứ hai.

    Mắt chánh thì thấy biết đúng như thật mà không thêm một cái gì vào, nên thấy chỉ là thấy. Như chúng ta đi ra ngoài chợ, người-vật-đồ đạt được hiện bày trước mắt, đủ thứ sắc thái, hình ảnh xanh, vàng, đỏ, trắng, nhưng ta không chen vào một ý niệm nào, ta chỉ thấy như thế rõ ràng, không lầm lẫn.

    Có người hỏi thiền sư Bồ Tát Nghìn Tay Nghìn Mắt, “mắt nào là mắt chánh?”

   Thiền sư nói, “ví như người trong đêm tối, với tay ra phía sau tìm chiếc gối, ngay khi ấy là mắt chánh”.

    Trong đêm tối không có đèn, cái gì biết mà tìm gối? Khi chúng ta đã sống với con mắt chánh rồi thì con mắt thứ hai không thể tác động được. Vậy tất cả quý vị chọn mắt nào? - Dạ mắt chánh!

    Hai con mắt, nếu ta chỉ mắt trái hay mắt phải thì cả hai đều không đúng, vì cả hai đồng thời thấy thì bảo làm sao có con mắt thứ hai được? Vậy ai trong chúng ta có thể chỉ ra được?

   Bồ Tát Nghìn Tay là tượng trưng cho việc làm không biết mệt mỏi vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng dấn thân, đóng góp, chia sẻ và nâng đỡ để mọi người sống thương yêu nhau bằng trái tim hiểu biết. Ngàn mắt là tượng trưng cho trí tuệ sáng suốt, biết soi sáng lại chính mình và muôn loài vật mà không bị người-vật làm ngăn ngại, nhờ tâm định tĩnh sáng trong. 

   Để làm thế nào biết được con mắt thứ hai, chúng ta hãy nghe câu chuyện đức Phật trong một kiếp quá khứ, đang trên đường hành Bồ Tát đạo. Thuở ấy, Ngài đang làm vua trị vì thiên hạ, sống một đời vương giả, thụ hưởng cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan, và tất cả thần dân thiên hạ.

    Do túc duyên nhiều đời đã biết tu nhân tích đức, nhà vua chán ngán ngai vàng, không còn thiết tha, mong muốn những lạc thú trên trần gian này nữa. Ngài bỏ hết tất cả để đi vào rừng sâu, chuyên tu thiền định, mong được sớm giác ngộ, giải thoátcứu độ chúng sinh.

    Hoàng hậu hay tin nên đuổi theo và cuối cùng, gặp được nhà vua trên đường đi. Hoàn cảnh éo le như vậy, vua muốn tiến tu mà vẫn bị chướng ngại vì tình chồng, nghĩa vợ. Vua hết lòng năn nỉ và khuyên nhủ bà hãy quay về, tiếp tục hưởng vinh hoa phú quý, sống đời sung túc, dư dã. Lòng vua đã muốn, nhưng hoàng hậu không buông tha, ví ái ân sâu nặng nên nhất quyết một mực đòi đi theo, thà sống có đôi có lứa, giữ trọn vẹn một lòng chung thủy. 

   Trước tình thế ngặt nghèo đó, vua không biết giải quyết cách nào cho ổn thỏa. Trời Đế Thích muốn tiếp thêm sức mạnh cho ngài để vượt qua vòng luyến ái, nên mới hiện ra một người thợ mộc ở gần bên bìa rừng. Vua và Hoàng hậu vừa đi tới đã thấy anh thợ mộc đang cầm thanh gỗ, nhắm xem coi nó thẳng mực hay chưa? Nhưng anh ta chỉ nhắm bằng một con mắt, vua thấy lạ mới hỏi anh, “vì sao phải nhắm bớt một con mắt?”. Anh thợ mộc nói, “nếu có con mắt thứ hai thì hai con nó tranh nhau, khó nhìn chính xác được”.

   Vua nghe nói vậy, tâm ông bừng sáng ra, nên nghĩ rằng, “ta đã chán cảnh xa hoa, phù phiếm, đua chen, giành giựt của thế gian ái nặng, tình sâu, nên mới đi vào rừng sâu để tìm sự an tĩnh của nội tâm, một lòng muốn vứt bỏ hết mọi thứ trên cõi đời này. Nhưng bên cạnh ta còn có Hoàng hậu theo sau, đó cũng là con mắt thứ hai làm chướng ngại quá trình tu tập của ta”. Nghĩ vậy xong, nhà vua liền cám ơn anh chàng thợ mộc, rồi tiện tay bẻ một cành cây nhỏ đưa cho Hoàng hậu và hỏi rằng, “này, tiện thiếp có thể làm cho cành cây dính trở lại thân của nó như cũ được không?”

   Hoàng hậu thưa, “dạ thưa bệ hạ, không thể nào được ạ”.

   Nhà vua nói, “cũng vậy, khi nào cành cây dính trở lại thân như cũ, thì chúng ta sẽ sống trở lại với nhau, giờ thì chúng ta mỗi người có một con đường riêng”. Nói xong, nhà vua bỏ bà ở lại một mình rồi mất hút trong rừng sâu, để lại trong bà nỗi nhớ, niềm thương trong cô đơn, tiếc nuối và buồn khổ.

   Câu chuyện ngụ ngôn trên đã giúp chúng ta thấy được con mắt thứ hai chưa? Có nhiều người vì con mắt thứ hai nên sống ngu, chết dỡ suốt cả một đời, mà chưa có một ngày thật sự hạnh phúc. Tại sao chúng ta không dám can đảm nhắm bớt một con mắt, để được sống đời bình yên, hạnh phúc mà không bị phiền não tham-sân-si và mọi thứ ràng buộc của thế gian chi phối.

   Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau chiêm nghiệm lại lời nói của anh thợ mộc coi ý nghĩa sâu xa của nó như thế nào. Nếu có con mắt thứ hai thì hai con nó tranh nhau nên khó nhìn chính xác khúc gỗ thẳng hay cong. Người tu như chúng tôi đã phát nguyện trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, từ bỏ gia đình người thân để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm thực hiện lý tưởng giác ngộ, giải thoát mà cùng nhau chia vui, sớt khổ.

    Nếu chúng ta không dứt khoát và có lập trường vững chắc, cứ để luyến ái tình thâm ràng buộc hoài, thử hỏi làm sao ta thực hiện ước mơ và hoài bão của mình. Tiền tài, danh vọng, vợ đẹp, con ngoan, uống ăn và ngủ nghỉ cứ như thế mà trở thành con mắt thứ hai, đeo bám ta dai dẵng từ đời này sang kiếp khác, không có ngày thôi dứt.

    Trên con đường tu học, nếu ta không can đảm bỏ bớt con mắt thứ hai, mà thậm chí còn thêm nhiều con mắt khác vào, ta không dứt khoát, không can đảm, không chịu buông xả, vậy làm sao ta có đủ khả năng để vươn lên, vượt qua cạm bẫy cuộc đời, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh.

    Ta cũng phải mạnh dạn và can đảm dứt khoát như nhà vua thì họa may mình mới có thể thực hiện lý tưởng cao cả, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Ta dám chấp nhận bỏ cha mẹ, xa lìa người thân yêu, để sống đời giác ngộ, giải thoát, nhưng ta lại không chịu buông tất cả, để được tất cả như đức Phật khi xưa.

    Ta bây giờ có gì để buông, sự nghiệp chưa có, tình yêu cũng không, mọi thứ ta đang sống đều nhờ vào tấm lòng của Phật tử bốn phương, họ phải nhín ăn, bớt mặc để ta có thời giantu học.

   Ta chỉ chuyên làm một việc như vậy, mọi cái, mọi thứ đều có người khác lo, nên khi mới xuất gia, trước tiên ta phải cắt ái, lìa người thân, để sống đời giải thoát, thế mà ta không chịu, cứ lình xình, lẹp xẹp, để cho tháng ngày trôi qua suông.

    Bây giờ, chúng ta hãy quán lại kỹ, coi thế gian này có gì là quan trọng để đáng cho ta luyến tiếc, đam mê, say đắm hay không? Người tu chúng ta phải lấy trí tuệ làm đầu, nhờ có trí tuệ, ta mới soi sáng được mọi vật mà biết rõ nguyên nhân, để ta không tham đắm, luyến tiếc, bị dòng đời cuốn trôi.

    Thân này già mà ta bảo nó không già được không? Thân này bệnh ta bảo nó không bệnh được không? Thân này chết ta bảo nó không chết được không? Cái mà nó theo ta hằng ngày, ta còn không giữ được, huống hồ là những thứ khác.

   Vậy mà ta vẫn sống với con mắt thứ hai hoài, ta phải can đảm như nhà vua mới được. Cầm nhánh cây đã bẽ gãy trên tay, vua hỏi người đẹp, “thiếp có thể làm dính  cành cây với thân cây lại được không? Nếu không thì hai ta mỗi người có một con đường riêng, nàng hãy ở lại để tiếp tục con đường của nàng, ta phải đi để đến con đường của ta. Vì ta biết khi ta đến đó, ta vẫn ăn-uống-ngủ nghỉ-làm việc và phục vụ như bao người khác, nhưng ta có tâm trong sáng và định tĩnh, nhờ vậy ta hay soi sáng muôn loài vật mà không bị ai làm chướng ngại. Ta chấp nhận xa lìa người thân, dứt tình ân ái, để đi đến phương trời cao rộng mà không lúc nào bị con mắt thứ hai làm mê mờ”.

   Ngày xưa, thiền sư Triệu Châu trong một lần về thăm bổn sư, vị thầy thế phát xuất gia; gia đình, người thân hay tin đến thăm đông đảo. Sư biết vậy liền nói, “lưới ái trần tục không có ngày thôi dứt, ta đã từ bỏ để sống đời cao thượng, nên không muốn gặp lại”. Nói xong, sư liền mang bát ra đi liền trong đêm đó.

   Ta phải mạnh dạn và dứt khoát như vậy, mới có thể làm nên việc lớn mà cứu người, giúp thế gian. Sau nàu, thiền sư Triệu Châu nổi tiếng khắp thiên hạ và sống đến 120 tuổi, độ vô số người, không thể tính kể. Nhờ dứt khoát không chấp nhận để con mắt thứ hai làm lay động, nên thiền sư đã thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát một cách dễ dàng.

   Thiền sư Hoàng Bá nói:

Vượt khỏi trần lao việc khó làm
Nắm chặt đầu dây giữ lập trường
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương!

    Ta muốn sống đời an lạc, hạnh phúc với lý tưởng cao thượng, ta phải dứt khoát lìa khỏi con mắt thứ hai, để vượt qua phong ba, bão táp của cuộc đời. Nhưng muốn được như vậy thì ta phải làm sao? Nắm chặt đầu dây giữ lập trường, ta phải cương quyết, mạnh dạn hơn, một đi không trở lại, hai đi không trở về, ba đi vì quyết chí, vượt thoát mọi trần lao, để ta và người cùng nhau thưởng thức hương thơm và mùi vị của hoa mai. Vậy có ai dám dứt khoátcan đảm bỏ con mắt thứ hai, để thưởng thức hương vị của hoa mai không?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2758)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2538)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2231)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2535)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2362)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2673)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2442)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3255)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2322)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2415)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2548)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2219)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2581)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3052)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2721)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3003)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2570)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2604)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4107)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2776)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3070)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3319)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2292)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2517)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3007)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2613)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2637)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3192)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2392)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2483)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2602)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2693)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2755)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3271)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2602)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2823)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2917)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2945)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2724)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant