Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Xả

18 Tháng Mười 201705:20(Xem: 8503)
Tâm Xả

TÂM XẢ

Tâm Minh


Tâm Xả


Trong Phật giáo, từ  ngữ “ xả bỏ hay buông bỏ” được thường xuyên nhắc đi nhắc lại trong nhiều bài thuyết pháp. Tâm xả là một trong 4 tâm vô lượng của chư Phật và Bồ tát, gọi là Tứ vô lượng tâm (Từ Bi Hỉ Xả). Trong Thiền, tâm xả là bước cuối cùng để hành giả hội nhập vào thực tại Tánh Không hay Phật Tánh.

Bài viết nầy sẽ bàn về tâm xả qua 2 lối nhìn: lối nhìn vĩ mô ( qua một quá trình dài) và lối nhìn vi mô ( từng thời điểm hay từng sát na của tâm thức) .

1)    Tâm xả theo lối nhìn vĩ mô:

 Người có nhiều chánh kiếnhành thiện nghiệp, đem lòng từ ái ra giúp đỡ và lòng bi mẫn cảm thông, hoan hỉ hành động vì tha nhân, là được 3 điều tốt Từ, Bi, và Hỉ. Nhưng nếu dừng lại ở đây với tâm không xả, cứ ôm ấp thành quả ấy như một công trạng, một đức hạnh, thì hậu quả là “cái tôi” phồng to ra, tánh kiêu mạn phát triển, xem thường mọi người. Đó là Từ Bi Hỷ Xả diễn ra theo thứ tự chiều thuận. Tại sao có thể diễn ra được như vậy ? – Đó là vì họ có lòng thương người.

 Nhưng đối với những người đầy tà kiếnnặng nghiệp ( tà nghiệp, ác nghiệp), sẽ không có việc ấy xảy ra, vì những người nầy không hề thương người, vốn chỉ biết thương bản thân mình và những người thân của mình (ngã sở). Họ thường xem người khác như kẻ thù, nếu không thì là những con bò sữa để vắt kiệt, hoặc những con dê tế thần. Vấn đề được đặt ra là : làm thế nào để họ có thể tự cải thiện được tà nghiệp ? Và bây giờ, chúng ta hãy thử đem tâm xả ra xem xét ở đây.

 Có lẽ là phải đi theo tiến trình đảo ngược “ Xả, Hỉ, Bi, Từ “, vì không có tình thương thì làm sao bắt đầu bằng từ bi được ? Trước nhất là phải “xả “ cái đã, nhưng xả là xả cái gì ? -  Đó là xả bỏ những tà kiến, chẳng hạn như:

-        Tôi phải làm giàu bằng mọi cách, mặc kệ cho ai ra sao cũng được.

-        Tôi là tài giỏi số một, không ai bằng. Người nào cãi tôi chỉ đáng chết.

-        Tôi chỉ che chở giúp đỡ những người thân và bạn bè của tôi mà thôi, còn những người khác thì nếu không trục lợi được họ thì tôi cũng bỏ mặc kệ họ.

-        Đời là một cuộc chạy đua, ai giỏi thì thắng lợi, ai dở thì thua thiệt ráng chịu.

-        Những người giàu có hoặc trí thức phải bị giết chết hết hoặc trừ khử hết, thì mình mới sống tốt được.

-        Nhà cửa của tôi, tiền bạc tài sản của tôi là thật có. Địa vị của tôi là thật có.

-        Con cái của tôi, vợ hay chồng tôi là thuộc về tôi

-        Sống là phải biết hưởng thụ. Tu hànhngu si, dại dột

-        Tôi còn sống lâu lắm.v.v….

Thật là muôn vàn khó khăn để những tà kiến tương tự như thế có thể bị xóa bỏ trong tâm thức họ. Có lẽ là phải trải qua vô lượng kiếp, trừ phi may ra họ gặp được duyên lành tiếp cận với Phật pháp, quyết tâm học hỏi trau dồi hiểu biết và tu sửa tâm tánh. Nhưng làm sao họ có thể tiếp cận được với Phật pháp một khi họ không thích, không muốn, hoặc cho đó là ngu si nữa ?  Cái giá của họ là phải trải qua nhiều đau khổ cùng cực, may ra mới chịu nhìn lại mà cầu tìm, và sự  khả dĩ nầy cũng không có nhiều. Khoảng cách từ họ đến với giáo pháp là quá xa…, xa hơn cả từ chân trời phía đông đến chân trời phía tây ( Xem Đại luận về Giai trình của đạo giác ngộ Quyển 1 của Đại sư Tây Tạng Tông Cáp Ba). Kết quả là một thế giới hỗn loạn đầy giành giựt, dối trá, giết chóc, và rồi dần dần đi đến hủy diệt như ngày nay.

Nước Nhật là một quốc gia lấy Phật giáo làm quốc giáo . Căn bản giáo dục mầm non của họ là dạy tánh không bon chen tranh giành: từ lớp 1 tới lớp 3 không có bất kỳ một kỳ thi nào, và mục đích giáo dục tiểu học là khai tâm nhiều hơn là khai trí: từ lớp 1 tới  lớp 6 luôn có môn học “nguyên tắc xử thế “ như  một môn đạo đức học thực tiễn. Kết quả tốt cho xã hội ra sao là điều rõ ràng như mọi người đều thấy, khó có quốc gia nào khác sánh kịp: tinh thần kỷ luật, tính nhân bản, cách cư xử tốt giữa con người với nhau.  Nước Bhutan cũng là một quốc gia Phật GiáoQuốc Vương xứ nầy đang chủ trương trồng rừng thật nhiều với mục đích làm sạch bầu khí quyển cho hành tinh của chúng ta.  Thật là một việc đáng ngưỡng mộ.

Trở lại vấn đề xả bỏ tà kiến. Trải qua bao đau khổ, hoặc bị trừng phạt, rồi chiêm nghiệm lại cuộc đờitư duy đúng, một số ít người có thể có được chánh kiến, buông bỏ được tà kiến (Xả), trở nên vui vẻ ( Hỉ), cảm thông ( Bi) và thương người (Từ). Đây là tiến trình đảo ngược Xả, Hỉ, Bi, Từ , khả dĩ của họ khi trở về với thiện đạo. Điều quan trọng là phải tư duy đúng ( chỉ có được ở người có chút lương tri).  Từ tư duy đúng( Chánh Tư Duy) phát sinh ra cái nhìn đúng ( Chánh kiến). Có cái nhìn đúng, cái thấy đúng thì mới có thể buông xả được. Thế nhưng, không phải chỉ có những người ác, người mang tà nghiệp, người nặng nghiệp quay về  với thiện đạo bằng ngõ “ Xả “, mà hầu hết chúng ta, là những người phàm phu nói chung, và những người nghiệp nhẹ, cũng phải bước đi trên con đường thiện đạo bằng ngõ “xả “ nầy, bởi vì  Hỉ, Bi,Từ ( vui vẻ, cảm thông, yêu thương) không thể có được ở một người cố chấp. Lý do là : chúng ta thường có nhiều tà kiến hơn là chánh kiến. Trong lúc chưa huân tập đủ chánh kiến, chúng ta phải đi theo lộ trình Xả Hỉ Bi Từ. Khi có đầy đủ chánh kiến rồi, chúng ta mới có thể đi theo chiều thuận Từ Bi Hỷ Xả của hàng Bồ Tát được.

Chánh kiến nói trên là gì ? Ở đây có nghĩa là chánh kiến tương đối, qui uớc, về một đối tượng nào đó-  là cái nhìn nào, cái thấy nào mà xuyên quachúng ta có thể đi đến được bờ giác ngộ giải thoát . Có bao nhiêu đối tượng để nhìn thấy thì có bấy nhiêu chánh kiến hoặc tà kiến. Huân tập chánh kiến là gặt hái được nhiều chánh kiến hơn và bỏ bớt dần những tà kiến. Cách hay nhất là phải có tâm cầu học và nghe giảng pháp thật nhiều. Khi huân tập đầy đủ chánh kiến thì tình trạng nầy được gọi là viên mãn chánh kiến. Người nầy, tuy chưa giác ngộ nhưng có thể tu tập theo tiến trình chiều thuận Từ Bi Hỉ Xả. Theo tôi, như đã trình bày trong bài viết trước ( số Phật Đản 2016), chánh kiến lớn lao và cơ bản trong cuộc sống là :  Đời là cõi tạm, là cõi đọa lạc, không phải chỗ để hưởng thụ. ( Tôi gọi người không có chánh kiến lớn lao và cơ bản nầy là “người đầy tà kiến”, để dễ diễn ý ngắn gọn trong những bài viết, không có ý chỉ trích).

Đó là nói về “xả” theo quan điểm vĩ mô, tức là nhìn nó diễn ra trong một khoảng thời gian nào đó của kiếp người.

2)     Tâm xả theo lối nhìn vi mô:

 Tiếp theo đây, chúng ta thử nhìn tâm xả theo cái nhìn vi mô, tức là nhìn tại một thời điểm nào đó,  nhìn nó tại từng sát na. Điều nầy liên quan đến Thiền: Thiền địnhThiền quán, tỉ dụ như: tư tưởng thứ nhất diệt, rồi tư tưởng thứ hai sanh khởi , v.v. , và không phải chỉ có trong Thiền, nó cũng có thể hiện diện ngay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đây là đề tài sở trường của môn  Duy Thức Học Phật giáo, thiết nghĩ điều nầy dành riêng cho những ai chuyên nghiên cứu về môn học phân tích chi ly nầy, ở đây chúng ta chỉ bàn sơ qua về cách nhận dạng tâm xả mà thôi. Vấn đề tìm hiểu là : khi nào tâm xả khả dĩ xuất hiện được ? Hoặc: tâm xả nào là xả thật sự ? Hay là: kiểu nầy có phải là xả hay chưa ?

Tôi xin đưa ra một vài ví dụ. Tôi hiểu đời là vô thường, không có gì tồn tại với thời gian. Thế mà tôi vẫn, bằng mọi giá, xây cất nhà cao cửa rộng đồ sộ y như là tôi sống đời cả ngàn năm. Đó là tôi không có chánh kiến về lẽ vô thường, đó là một cái thấy sai ( tà kiến). Hiểu là một chuyện, nhưng thấy là một chuyện khác ( nhìn đời qua một cặp kính màu hồng, chẳng hạn). Giữa hiểu và thấy là 1 khoảng cách rất xa, xa hơn từ chân trời phía đông qua chân trời phía tây. Thí dụ : tôi hiểu người ấy là vợ của bạn tôi, không nên yêu và cũng không thể yêu được, nhưng mỗi khi gặp, tôi thấy như thể muốn ôm người ấy vào lòng ! Hoặc là: tôi hiểu sâu Phật pháp và hiểu rất nhiều kinh điển, nhưng tôi không muốn tu hành chút nào, tôi xem nó như một mớ kiến thức để trang điểm cho bản thân mình mà thôi. Khá hơn một mức là: hiểu và thấy đều có, nhưng không chấp nhận: tôi hiểu là như vậy, và cũng thấy như vậy, nhưng điều nầy nhất định là không thể được, nghĩa là tôi không chấp nhận. Giữa thấy và chấp nhận cũng là 1 khoảng cách rất xa. Tôi hiểu rằng anh ấy rất thông minh giỏi giang qua tiếp xúc với anh ta,  và cũng thấy anh ta giỏi thật khi làm việc, vậy mà trong thâm tâm, tôi vẫn muốn nghĩ rằng anh ta do may mắn là con nhà giàu mới trở nên được như vậy, tức là tôi không muốn chấp nhận điều ấy. Hiểu, thấy và chấp nhận, là 3 giai đoạn tiến bộ của tri thức và cũng là lộ trình tu tập tiến đến giác ngộ giải thoát. Từ  hiểu đến thấy có thể trải qua một vài trăm kiếp, rồi từ thấy đến chấp nhận cũng vài ba trăm kiếp nữa, vì đối tượng để hiểu, để thấy… thì có rất nhiều, chứ không phải có một vài cái .

Thế nhưng, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh đã viết rằng:  “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngủ uẩn giai không”…….v.v.. , trong đó vị Bồ Tát nầy soi thấy 5 uẩn đều không: Sắc là không…, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều là không, nghĩa là chứng được thực tại Tánh Không, hòa nhập với Giác Tánh Chân Như  ở sát na đó. Cái thấy nầy là chánh kiến tuyệt đối, chánh kiến tối hậu, hay chánh kiến siêu thế gian, là cái thấy siêu việtnhất nguyên, không còn nằm trong thế nhị nguyên đối đãi của chủ thể ( người thấy) và đối tượng ( vật bị thấy) như cái thấy đề cập ở phần trước. Muốn được như vậy, thấy và chấp nhận phải hiện diện cả hai, đây mới gọi là tâm xả đích thật . Một tâm xả đích thật phải gồm có đủ 3 yếu tố: hiểu, thấy và chấp nhận. Nếu không chấp nhận thì có nghĩa là không muốn thấy, không muốn hiểu, là quay lưng với thực tại với tâm bám nắm hay ghét bỏ. Nếu chỉ có hiểu và thấy thôi, thì cái trí có xả, chứ tâm không chịu xả. Thế là giác ngộ giải thoát hãy còn rất xa. Tại sao hiểu và thấy rồi mà lại không chấp nhận ? Đây là câu hỏi cần được giải thích. Cái thấy này là chánh kiến tương đối về một đối tượng nào đó. Đối với người chưa viên mãn được chánh kiến ( huân tập chánh kiến chưa đầy đủ), chung quanh chánh kiến nầy có một số tà kiến  ở  bình diện ý thức hoặc vô thức ( unconscious) bu quanh ngăn cản ám chướng, khiến khởi lên “tâm không chấp nhận”, và như thế , tâm xả cũng không thể xảy ra. Thử nhìn theo một bình diện khác: theo Kinh Sáu Pháp thuộc Tăng Chi Bộ Kinh ( Chương Sáu Pháp- Hội Chúng), 4 giai đoạn chót của lộ trình giải thoát là: 3.Viên mãn chánh kiến, 4.Viên mãn chánh định, 5. Từ bỏ các kiết sử , 6. Chứng ngộ Niết Bàn, ta thấy trong đó, giai đoạn 5 (từ bỏ các kiết sử) là giai đoạn mà tâm xả sẽ sinh khởi. Từ ngữ  “kiết sử” có nghĩa là những sai khiếnràng buộc vi tế,  thuộc về nghiệp, gồm có 10 cái: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham cõi dục, tham cõi sắc, tham cõi vô sắc, sân hận, si vi tế, kiêu mạn, trạo cử vi tế.  Đó là nhìn theo lối nhìn vĩ mô của những tháng ngày tu tập. Nhưng nhìn theo từng sát na của thời điểm tu tập ( vi mô), một hành giả có thể xả được ở thời điểm nầy mà không xả được một thời điểm khác nào đó, tùy theo đối tượng của thiền ở mỗi lúc.

Trong khi hành thiền về quán tâm, chợt có một ý tưởng nào đó khởi lên. Nếu ta vội xua đuổi nó đi, là ta lọt vào trạng thái ghét bỏ, còn nếu ta chìu theo nó và các liên tưởng tiếp theo xuất hiện làm thành một chuỗi, là ta lọt vào trạng thái bám nắm. Cả hai trường hợp nầy đều không phải là tâm xả. Ngược lại, nếu ta không dung dưỡng nó và cũng không xua đuổi nó, và thấy rằng : “ A  ! bộ mặt thật của mày là như vậy đó ! “ Có thể ví như khi một người mẹ cho đứa con mình một viên kẹo ngọt, đứa con liền sáng mắt vui mừng hớn hở, người mẹ thấy rằng “ A ! bộ mặt thật cùa mày là như vậy đó, thằng dởm ! ”.[ Đây là  cái thấy trung lập đầy thông cảm với đứa con của mình]. Khi thấy được như vậy thì cái thấy nầy là một hiển bày, hiển lộ của Giác Tánh thuần khiết nguyên sơ, của Phật Tánh, của Chân Như. Chữ “mày” trong câu trên là chính cái ý tưởng khởi lên đó, mà qua nó, Giác Tánh Chân Như được lóe lên . Đây là dạng Báo Thân Phật ( với ý nghĩabiểu lộ ra cho thấy ).  Vì tâm không bám nắm hay ghét bỏ, ý  tưởng tự đến rồi tự đi, không một dấu vết nào lưu lại trong tâm. Đây là tâm xả đích thật tại sát na đó. Đại sư Tây Tạng Tsele Natsok Rangdrol trong “ Lời tâm huyết cuối cùng lúc lâm chung” có mô tả trạng thái ấy như sau:

Những gì xuất hiệnhiện hữu, thảy đều là sự hiển lộ diệu kỳ của cảnh giới bao la của Giác Tánh, thì cái thấy tối thượng chính là nhìn ra được tâm mình trong tình trạng tột cùng trần trụi nguyên sơ”.

Hay:

 “ Tất cả những tư tưởng khởi hiện lên như là những biểu lộ của Tánh Biết Tự Nhiên ấy, cho dù là thô lậu hay vi tế, đừng phân tách chúng cũng đừng theo đuổi chúng, đừng lôi kéo chúng trở lại trong [kinh nghiệm] thiền định, cũng đừng ngăn cản chúng”.

Và:

“ Nếu chuỗi tư tưởng tiếp tục hoành hành thì chẳng cần đến pháp đối trị nào khác, bởi vì bất cứ cái gì hiện ra cũng sẽ tự giải phóng chính nó. Bất cứ điều gì hiện đến một cách tự nhiên cũng đều là sự chiếu toả chói ngời của chính tâm con. Hãy nhìn thẳng vào tâm ấy bằng cái nhìn sáng rõ linh động…”

 Đối với phần đông chúng ta, mọi tư tưởng khi khởi lên đều không được tâm ta nhận dạng theo kiểu nầy, nên tất cả đều là vọng tưởng, chúng lôi kéo tâm ta như lôi xềnh xệch một xác chết một cách không thương tiếc, vòng hành samsara bắt đầu hoạt động và phát sinh ra thời gian [ tâm lý]. Khoảng cách giữa hai vọng tưởng, lúc mà tư tưởng nầy vừa diệt mất mà tư tưởng mới chưa khởi lên, là một khoảng vắng lặng của Chân Như, được gọi là Pháp Thân Phật, nhưng ít ai nhận thấy được nó  vì do vô minh che lấp. Từ trong khoảng vắng lặng nầy của Chân Như, một ý tưởng được khởi  lên trong tâm từ để cứu độ tha nhân, thì đó được gọi là Ứng Hóa Thân Phật. Đó là lý thuyết về Tam Thân Phật, gồm: Pháp Thân, Báo ThânỨng Hóa Thân.

Chúng ta có thể thắc mắc rằng: tư tưởng của chúng ta khi nào là vọng tưởng, và khi nào là tư tưởng bất nhị thuộc bồ đề chân như ? - Chúng ta đều biết rằng mọi tư tưởng đều nằm trong thế nhị nguyên đối đãi giữa chủ thể ( người suy nghĩ) và đối tượng (đề tài suy nghĩ). Tùy theo chúng ta  nhìn theo góc độ nào, hoặc từ chỗ đứng nào, thì tư tưởng khởi lên cũng sẽ sai khác như thế ấy. (Thí dụ đi vòng quanh một con voi để chụp chừng vài chục tấm hình với khẩu độ ống kính khác nhau, thì những hình chụp được, không có tấm nào giống tấm nào đã đành, nhưng không có tấm nào đại diện cho toàn thể con voi được). Điều nầy nói lên rằng cái thế nhị nguyên luôn luôn là lệch lạc, bất toàn, là  dạng thể của vọng tưởng. Có tư tưởng nào vượt hơn cái bất toàn ấy không ? - Đó là tư tưởng bất nhị, thuộc về nhất nguyên. Hàm ý trong ví dụ trên là: chúng ta phải thể nhập vào con voi thì mới có thể mường tượng hay cảm nhận được con voi ra sao. Tư tưởng nào thể nhập vào thực tại thì đó là tư tưởng bất nhị, hòa nhập vào Giác Tánh, vào Chân Như.  Người ta có thể nghi ngờ rằng: “Nhị và bất nhị không thể có cùng một lúc, nghĩa là không thể có vừa nhị nguyên vừa bất nhị , và như thế không có tư tưởng nào là bất nhị cả”. Thắc mắc nầy được Đại sư Tenzin Wangyal Rinpoche giải thích như sau trong “ Những Yoga Tây Tạng về giấc mộng và giấc ngủ (The Tibetan Yogas of Dream and Sleep):

 “Lúc bắt đầu, rigpa và tư tưởng có vẻ khác nhau, đến nỗi trong kinh nghiệm về rigpa thì không có tư tưởng, và nếu tư tưởng khởi lên chúng ta bị phóng dật và mất rigpa. Nhưng khi sự vững chắc trong rigpa được phát triển, tư tưởng chỉ đơn giản khởi lên và tan biến mà không có chút che ám nào rigpa ; hành giả an trụ trong tỉnh giác bất nhị. Những tình huống này tương tự với học chơi trống và chuông đồng thời trong thực hành nghi lễ : lúc ban đầu chúng ta chỉ có thể làm được một thứ. Nếu chơi chuông, chúng ta mất nhịp điệu của trống, và ngược lại. Sau khi chúng ta đã vững chắc, chúng ta có thể chơi cả hai cùng một lúc…..”

                          ( Rigpa tiếng Tây Tạng, có nghĩa là Tịnh Quang, Ánh sáng Chân Tâm )

Tóm lại, tâm xả là yếu tố căn bảntối hậu để đưa chúng ta vào chánh kiến tuyệt đối, hội nhập vào Tánh Không, vào Giác Tánh Chân Như trong từng sát na ( vi mô) của lộ trình tiến đến giác ngộ giải thoát ( vĩ mô). Lộ trình nầy là một công trình tu tập lâu dài để có được thói quen xả bỏ từ giây phút nầy qua giây phút khác. Khi thói quen nầy được thuần thục, nhuần nhuyển thì chân trời giải thoát mới từ từ ló dạng.
 

                                                                                                                             Lê Tâm Minh
                                                                                                                               21-7-2016
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13972)
Mỗi tuần lễ đều có hai ngày mà chúng ta không cần phải bận tâm lo âu đến và suy nghĩ đến. Ngày thứ nhứt là Hôm Qua...
(Xem: 13155)
Ngài có công lớn đem Phật giáo vào thế giới phương Tây, mang lại hòa hợp giữa các tôn giáo, trồng cây Bồ Đềvị trí tương xứng với nhân loại ngày nay.
(Xem: 13607)
Cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau. Để có được hạnh phúc, một người cần phải cống hiến nuôi dưỡng hết mình cho xã hội và cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 13266)
Ờ, thì nôn nao, thì nhớ, thì… nôn nao. Nhớ hình bóng quê nhà, là nhớ mẹ. Nhớ lúc mẹ lật đật chạy từ trong nhà ra ngõ đón mình về.
(Xem: 13183)
Một vị Bồ tát đạt được giải thoát như một vị a la hán bồ tát trên con đường trở thành một vị Phật. Nhưng ngài không dừng ở đấy; ngài sẽ hoạt động xa hơn để đạt đến giác ngộ.
(Xem: 12931)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả)...
(Xem: 12493)
Kính đa tạ quý Ôn giảng sư, quý thầy, quý ni sư, quý sư cô luôn hiện diện đầy đủ trong lớp học để thời gian an cư ngắn ngủi tại PHVQT năm 2011
(Xem: 14103)
Đời sống của ngài hàng ngày theo một thời khóa giản dị. Ngài dậy trước khi hừng đông, một thời gian hoàn toàn êm ả và tĩnh lặng thật tuyệt hảo để thiền quán.
(Xem: 12403)
Mỗi ngày được lên trang nhà và đọc một câu chuyện đêm khuya cũng giúp mình tịnh tâm học hỏi được chút ít gì làm hành trang cho chính mình trên con đường tu tập nên mình vui lắm.
(Xem: 12962)
Với dân số khoảng hơn 6 triệu người và có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa cao nhất thế giới so với số dân.
(Xem: 13317)
Phật giáo vượt qua giới hạn của cá nhân-nhận ra sự thật của sự liên kết lẫn nhau có nghĩa là cùng tham gia với mọi người trong một thế giới rộng lớn hơn.
(Xem: 11691)
Giới trí thức Phật giáo luôn quan tâm đến nghiệp vận tôn giáo mình trên quê hương cũng như nơi đất khách. Họ vẫn ngồi lại mỗi khi có dịp, nỗi ưu tư được nêu ra...
(Xem: 12566)
Về phương diện tinh thần, hơi thở còn có khả năng làm lắng dịu và chữa trị những cảm xúc tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi, bất an v.v... trong ta được bình phục.
(Xem: 13230)
Con người ta nếu sống chân thành, thật thà với chính mình, với người thì cái tâm ấy như vàng, như kim cương nên không sợ chi lửa.
(Xem: 13095)
Văn học Phật giáo có kể về những kỹ nữ là những Phật tử thuần thành. Trưởng lão ni kệ có kể về hai kỹ nữ, cũng là hai chị em Vimala và Sarama.
(Xem: 19420)
Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi địa danh các đơn vị hành chính các cấp: hạt TDM (1869), tỉnh TDM (1899), thị xã TDM (1975).
(Xem: 13345)
Dù lý giải như thế nào đi nữa thì cũng dễ dàng nhận thấy là mối quan hệ tình cảm của con người là cái quan trọng nhất vượt lên trên cả tiền bạc, vật chất...
(Xem: 13505)
Ta phải thực tập chính niệm để duy trì cái thấy vô thường; cái thấy các pháp tương tác duyên khởi ở trong thế gian, đang bị vô thường bức hại...
(Xem: 17658)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 14069)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời.
(Xem: 12935)
Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi.
(Xem: 14016)
Thanh lọc tâm mình bằng cách thiền tập hoặc niệm Phật để tiếp xúc với năng lượng tĩnh lặng từ bên ngoài lẫn bên trong là cách làm của người tin Phật, có trí.
(Xem: 12121)
Có một thứ mà khi càng cho đi thì càng có thêm nhiều, đó là lòng tốt. Có một loại năng lượng nào càng sử dụng, thậm chí càng xài phí thì càng có nhiều thêm, đó là lòng tốt.
(Xem: 11873)
Thời giansự thật, nơi bôi xóa, giấu che và hiển lộ tất cả. Trong nghĩa ấy, thời gianlịch sử. Lịch sử được làm nên từ những ánh rực rỡ và những lặng thầm, trên đường đi của nhân loại.
(Xem: 13076)
Một ngày nọ, chàng trai muốn đi xuất gia. Chàng nói ý định này với người bạn thanh mai trúc mã của mình. Nàng thiếu nữ nghe xong thoáng buồn và hỏi lại...
(Xem: 13359)
Sơ suất có thể làm hại mình, hại người, nhất là trong những quyết định quan trọng. Đó là bài học tôi nghe được từ một người thầy.
(Xem: 11909)
Dầu cuộc đời có bận rộn và nhiêu khê đến đâu, hãy nhớ dừng lại để thở, để nhìn nụ cười trong những đóa hoa, mây bay trong tách cà phê thơm...
(Xem: 17018)
Công việc sẽ chiếm phần lớn cuộc đời bạn và cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời.
(Xem: 12378)
Đức Phật đã khẳng định rằng nữ giới và nam giới đều bình đẳng trong khả năng chứng ngộ, và vì lý do đó Ngài đã cho phép họ được xuất gia...
(Xem: 12711)
Hè đến, những cánh phượng nhuộm đỏ một góc đường. Ta lại bồi hồi nhớ lại ký ức xưa cũ. Con đường đất, mái nhà xiu vẹo...
(Xem: 12276)
Hành trang đi vào trong vô thường để tìm chân thường, biết huyễn mộng vẫn đi vào huyễn mộng, để tìm lại con người chân thật, con người của thảnh thơi, thanh tịnh, hạnh phúc...
(Xem: 13979)
Mỗi bước chân và mỗi cái nhìn của mình có thể chế tác được năng lượng an lạc. Mình bước tới và mình biết là mình đang chạm vào tịnh độ.
(Xem: 12349)
Hạnh phúc luôn có mặt trên những chặng đường ta đi qua chứ không phải ở cuối con đường. Hạnh phúc có thể được tìm thấy trong từng phút giây ta sống...
(Xem: 11712)
Nếu mọi người, mọi nhà đều thực hành Luật Nhân Quả họăc biết sợ Nhân Quả thì thế giới này biến thành một Cung Trời mà chẳng cần phải bôn ba tìm kiếm Thiên Đường ở đâu khác.
(Xem: 12400)
Chư Phật Bồ tát xuất hiện ở đời vì chúng sinh mà khởi đại bi tâm, khải mê khai ngộ. Các Ngài đã phát đại nguyện ban vui cứu khổ, phụng sự cho chúng sinh mà không quản nại mọi khó khăn...
(Xem: 12954)
Khi bạn đau khổ, có những vấn đề, mắc bệnh ung thư, bệnh aids, rắc rối trong mối quan hệ, bất kỳ điều gì, hãy nghĩ: “Nguyện đại dương khổ đau sinh tử của tất cả chúng sinh khô cạn.”
(Xem: 13046)
Ở đây, mình đi tìm mùa xuân của lòng người, lòng mình, nên chỉ cần ngồi thật im, thật vững chãi và chế tác năng lượng mùa xuân...
(Xem: 12245)
Để có được sự trưởng dưỡng nội tâm, chúng ta cần phải sống chậm lại, chú ý lắng nghe nhiều hơn, nói ít đi, quan tâm nhiều hơn tới tiếng nói của nội tâm mình...
(Xem: 12289)
Trong cuộc sống cần rất nhiều thiện hạnh để nâng đỡ cho tinh thầnđời sống của chúng ta. Nếu không có những thiện hạnh, chúng ta sẽ dễ sao nhãng tinh thần...
(Xem: 11692)
Một phê bình luôn phải đặt vững trên nền tảng thực tại riêng của nó – thực tại mà nhãn quan của nó làm phát lộ, cái thực tại đặc thù bởi trong cách thức đặc thù mà liên hệ đến cái thực tại...
(Xem: 11766)
VNPG không phải là một phong trào hay một giai đoạn làm ăn phát đạt nhờ mua bán giỏi, mà là một nền tảng đạo đức chuyên biệt, dung chứa những tâm nguyện cao cả...
(Xem: 12083)
Chúng ta may mắn có một đạo Phật, dưới ánh sáng của Đấng Giác ngộ với tấm lòng Từ bi và Trí tuệ, xuất hiện trên cuộc đời uế trược nầy vì lợi ích cho trời người.
(Xem: 13108)
Lắng nghe mọi người, để hiểu và thương. Đó cũng là một cách nói rằng: tôi luôn có mặt cho mọi người, nhất là những người đang khổ đau.
(Xem: 12634)
Khi mình niệm hơi thở, nụ cười, là khi mình làm cho tâm mình lắng dịu, như hồ nước không gợn sóng, có nghĩa là mình có định.
(Xem: 13097)
Giác ngộ mới là cái cần làm, trong đó trước tiên là hiểu mình, đến hiểu bản chất của cuộc sống vạn vật, rồi quay lại với cuộc sống sôi động.
(Xem: 11663)
Thịt bò nói riêng và súc vật nuôi để làm thức ăn cho con người nói chung đã và đang tổn hại môi trường sinh thái.
(Xem: 14870)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm rõ ràng việc chúng ta có thể tha thứ ra sao nhưng vẫn tin rằng trong ý chí tự do chọn lựa, tất cả chúng tathể không phải hành động tổn hạithực hiện những điều tốt đẹp.
(Xem: 13842)
Có một ý thức trực giác về nghiệp quả - một sự hiểu biết rằng hạnh phúc, và bất hạnh của chúng ta tùy thuộc vào hành động của chúng ta...
(Xem: 14008)
Con rùa nói: “Tôi không biết chiếc vòng vàng ở đâu? Tôi không thể nhìn thấy, nhưng tôi đã nghe nói rằng tinh túy của toàn bộ Phật giáo là sự phát triển Bồ đề tâm...
(Xem: 13883)
Một ngày, nếu dành cho Thân dăm phút thực sự ngồi yên; rồi bằng quyết tâm, biết đâu sự kỳ diệu sẽ đến, là Tâm và Ý cũng ngồi yên như Thân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant