Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trong Con Người Cái Gì Là Quan Trọng Nhất?

23 Tháng Mười 201705:09(Xem: 11753)
Trong Con Người Cái Gì Là Quan Trọng Nhất?
Trong Con Người Cái Gì Là Quan Trọng Nhất?

Thích Đạt Ma Phổ Giác
Trong Con Người Cái Gì Là Quan Trọng Nhất

Lời nguyện chân chính luôn giúp cho ta đem lại rất nhiều năng lượng có ích, để mình không thất chí, nản lòng mà vững niềm tin hơn mỗi khi gặp việc không được tốt đẹp theo ý muốn. Người tu là người có chí nguyện cao cả vì sự sống còn của nhân loại, ta bình yên, hạnh phúc mà không an phận hưởng nhàn, luôn vì lợi ích tất cả chúng sinh. Đó là tâm Bồ Đề kiên cố của những con người đi theo con đường hiểu biếtthương yêu, để được chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

   Mẹ chúng tôi khi còn sống thường đố rằng, “cái gì quan trọng nhất trong cơ thể?” Khi còn nhỏ, chúng tôi thường cho rằng, âm thanh là quan trọng nhất của con người, nên nghĩ tai là số một.

   Mẹ tôi nói, “không phải đâu con ạ. Nếu con nói tai là quan trọng, vậy tại sao rất có nhiều người điếc trên thế gian này. Thôi con hãy chịu khó suy nghĩ tiếp đến khi nào trả lời được chính xác câu hỏi của mẹ”.

   Khi tôi lớn lên một chút, bao nhiêu hình ảnh thân thương đều hiện ra rõ ràng trước mắt, nên tôi cho rằng mắt là quan trọng. Tôi liền tìm đến bên mẹ, quả quyết rằng mắt là hơn hết.

   Mẹ âu yếm nhìn tôi và nói, “thời gian đã giúp cho con tiến bộ thêm quá nhiều, nhưng câu trả lời của con cũng chưa hoàn toàn đúng, vì trên thế gian này còn cả một khối người mù”.

   Rồi thời gian cứ thế trôi qua, tôi lại nghĩ miệng là quan trọng hơn hết, nên lần này khẳng định với mẹ.

   Nhưng lần nào cũng vậy, mẹ tôi đều nói “chưa đúng đâu, con ạ”. Tôi mới nói với mẹ, “miệng nói năng, giao tiếp để giữ mối quan hệ tốt đẹp trong cuộc sống và ăn, nhằm để nuôi sống bản thân, tiếp thêm năng lượng cho các bộ phận khác trong cơ thể cùng hòa hợp với nhau hoạt động và làm việc, nên miệng là quan trọng nhất”.

    Mẹ nói, “con càng ngày lớn khôn, có thêm sự hiểu biết, nhưng hãy suy nghĩ thêm một chút nữa đi con, để rồi một ngày nào đó, con sẽ nhận ra phần nào là quan trọng nhất trong cơ thể?”

    Cứ như thế, lần nào tôi đến bên mẹ để trình bày đều không được mẹ đồng ýchấp nhận. Mẹ chỉ khuyên tôi, “hãy nên dùng trí tuệ để soi sáng thì con sẽ từ từ thấu rõ, con sẽ biết cái gì là quan trọng nhất trong cơ thể?”

    Rồi đầu năm nay, mẹ tôi sau cơn bạo bịnh và mất tại chùa Giác Ngộ, tôi và một vài người trong gia đình khóc. Lúc bấy giờ, tôi mới chợt nhận ra, đôi vai là phần quan trọng nhất trong cơ thể. Vì khi mẹ còn sống, mẹ thường dùng đôi vai để bao bọc và che chở, nâng đỡ cho các con, nhờ thế chúng tôi có cơ hội khôn lớn và trưởng thành.

   Bây giờ, sau khi được tu học tại Thiền Viện Thường Chiếu, tôi càng thấy rõ hơn sự san sẻ, giúp đỡ để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh là quan trọng hơn hết; vì trong thân, đôi vai chịu trách nhiệm để nâng đỡ đầu, mình, tay, chân và gánh vác toàn thân, cộng với sự ý thức của tâm biết bao dung, độ lượng, biết nâng đỡ, sẻ chia bằng trái tim yêu thươnghiểu biết.

    Nói cho dễ hiểu hơn, mỗi người chúng ta ai cũng có đôi bàn tay và khối óc, cùng với sự mầu nhiệm của hiểu biếttu tập. Cho nên, cuộc sống lúc nào cũng cần có sự yêu thương chân thành, biết chia vui, sớt khổ trong mọi hoàn cảnh. Giờ thì chúng ta thử luận bàn về thân có đầu, mình, tay, chân, mắt, tai, mũi, lưỡi, cùng với sự hiểu biết của tâm ý thức.

    Để duy trì cho thân được làm việc có lợi ích, chúng ta phải biết sắp xếp hài hòa, cái nào là bộ phận chủ đạo, và cứ như thế theo thứ tự sinh hoạt nhịp nhàng. Nếu trong ta chỉ một bộ phận chống trái lại thì mọi cái cũng đều bị đình trệ theo.

    Chỉ đạo điều hành chính là anh ý thức, cộng với nhận thức sáng suốt do biết tu tập, chuyển hóa, thì mọi việc sẽ dung thông, tốt đẹp; còn nếu ta chỉ sử dụng bằng ý thức thôi thì sẽ sinh ra lòng tham đắm, rồi chấp trước, bám vào đó mà muốn chiếm hữu, từ đó phát sinh ra tranh chấp, phân định, rồi dẫn đến chiếm giữ vì ta và của ta.

    Do đó, cảm thông nỗi đau của người khác và biết san sẻ cho nhau là quan trọng hơn hết; vì trên thế gian này, còn người cần đôi vai che chở, nhiều người đói tình thương, khát khao sự sống, họ bị đau thương và mất mát bởi sự tác động của nhân quả quá khứ.

    Chính vì vậy, ta không thể làm ngơ trước những mảnh đời bất hạnh, mà cần phải biết mở rộng tấm lòng sẻ chia, giúp đỡ, bao dungđộ lượng, biết cảm thông nỗi đau của người khác.

    Bản thân tôi đã từng sống trong si mê, sa đọa hơn 20 năm, vì hiểu biết sai lầm. Tôi có được người mẹ giúp đỡ, tạo điều kiện làm lại cuộc đời nhờ tấm lòng bao dung, độ lượng rộng lớn của bà. Nhờ vậy, tôi được xuất giatu học tại Thiền Viện Thường Chiếu cho đến ngày hôm nay.

    Nhớ về quá khứ khổ đau do thấy biết sai lầm, nên tôi cảm thấy xót xa não nề, bởi đứng giữa dòng đời nghiệt ngã, nhiều người đã chìm đắm trong si mêtội lỗi. Họ đáng thương hơn là đáng ghét, bởi họ đã đánh mất đi trái tim hiểu biết, nên họ nói lời thô lỗ, cộc cằn, khó nghe, họ làm những việc mà xã hội không thể chấp nhận được; vì mất lương tâmđạo đức, họ làm cho gia đình, người thân bị liên lụy và ảnh hưởng.

    Phật dạy, họ là những người đang sống trong cảnh tối tăm, mờ mịt, họ đang làm mất dần tình yêu thương của nhân loại. Nếu không có ai giúp đỡ và cứu vớt họ, cuộc đời của họ càng đi xa hơn chỗ ánh sáng yêu thương, và cuối cùng chỉ lẫn quẫn trong vòng tối tăm, mờ mịt, biết chừng nào mới ra khỏi.

    Phật dạy, đó là những người từ trong chỗ tối đi vào chỗ tối, nhưng tại sao họ phải nên nông nỗi như thế? Vì họ không có đủ niềm tin, hiểu biết về cuộc sống. Niềm tin ở đây không phải là niềm tin đối với thần linh thượng đế mà là niềm tin đối với Tam Bảo, niềm tin đối với nhân quả, và niềm tin đối với chính mình. Ta phải có niềm tin như thế nào để ta có hiểu biết bằng tình yêu thương chân thật, mà không bị rơi vào hố sâu của tội lỗi.

   Niềm tin đối với thần linh thượng đế chỉ phù hợp khi con người còn ăn lông, ở lỗ; vì khi đó, ta cảm thấy con người quá nhỏ bé với bầu vũ trụ bao la này. Ta cứ nghĩ rằng, cuộc đời của ta có một bàn tay sắp đặt, định đoạt; và cứ như thế, ta an phận nơi niềm tin đó mà không cần tìm hiểu.

    Bây giờ, chúng ta thử suy nghĩ cho chín chắn, nếu thượng đế có đủ quyền năng ban phước thì phải cho đều hết, vì cớ sao có người được, có người không? Rõ ràng niềm tin này không còn phù hợp nữa; vì hiện nay, khoa học đã khám phá ra mọi sự hình thành trong bầu vũ trụ bao la này do nhiều nhân duyên kết hợp, không có gì do một nhân mà tồn tại được. Khám phá của khoa học phù hợp với lời dạy của Phật khi xưa đã cách nay trên 2600 năm.

    Vậy niềm tin đó là gì? Trước nhất, ta phải có niềm tin đối với Tam Bảo, tức tin vào Phật-Pháp-Tăng. Phật là một con người giác ngộ, có tình thương yêu bình đẳng bằng trái tim hiểu biết, có trí tuệ, có từ bi và sẵn sàng chia vui, sớt khổ với tất cả muôn loài chúng sinh. Vì thế, chúng ta gọi là Phật Bảo; và ta phải tin rằng, nếu ta thực tập những lời dạy chân chính đó, ta sẽ mở rộng được sự hiểu biết, yêu thương, để tiếp nhận bình an, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

   Ta phải tin chính mình có Phật tính sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng, không lầm lẫn, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Nếu ai không có niềm tin đó thì không bao giờ có đủ khả năng, để trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh.

   Con người của ta có khả năng yêu thương bằng trái tim hiểu biết, nên mình dễ dàng tiếp nhận bình an, hạnh phúc thật sự ở cõi lòng, mà không hề có sự van xin, cầu cạnh từ bên ngoài. Niềm tin này không phải là sự mê tín, mà là niềm tin bằng sự giác ngộ, do trí tuệ khai mở và phát sáng, ta thấy trong mình có khả năng mở rộng sự hiểu biết, làm lớn thêm lòng thương yêu bình đẳng, không phân biệt người thân hay kẻ thù.

   Nhờ vậy, ta biết cách chuyển hóa tất cả mọi phiền não, khổ đau, và ta có quyền làm chủ bản thân để tạo dựng một đời sống bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ mà chẳng phải tìm cầu đâu xa.

    Đó là ta tin vào tính biết sáng suốt ngay nơi thân của mỗi người, mà trong kinh gọi là Phật tánh. Niềm tin này không phải là niềm tin mù quáng bằng lý thuyết suông, mà là một thực tại nhiệm mầu, có sự tu tậpthường xuyên quán chiếu, xem xét rõ ràng. Nhờ vậy, ta thấy ai có hiểu biết, có yêu thương, có trí tuệ, có từ bi và hay làm lợi ích cho nhiều người mà không bao giờ tính toán, so đo tốt xấu, đúng sai, thì mình biết người đó có bình yên và hạnh phúc thật sự.

    Niềm tin của ta được trải nghiệm qua cuộc sống thực tế bằng cách tu học và dấn thân, chứ không phải ngồi không mà hưởng nhàn, với quan niệm ta là thầy của thiên hạ. Khi ta có ý chí, có niềm tin, có lý tưởng vì lợi ích tha nhân bằng trái tim yêu thương, hiểu biết, thì mình sẽ có đủ sức mạnh để đi tới phương trời cao rộng, cho đến khi nào đạt được chí nguyện đó mới thôi.

    Lời nguyện chân chính luôn giúp cho ta đem lại rất nhiều năng lượng có ích, để mình không thất chí, nản lòng mà vững niềm tin hơn mỗi khi gặp việc không được tốt đẹp theo ý muốn. Người tu là người có chí nguyện cao cả vì sự sống còn của nhân loại, ta bình yên, hạnh phúc mà không an phận hưởng nhàn, luôn vì lợi ích tất cả chúng sinh. Đó là tâm Bồ Đề kiên cố của những con người đi theo con đường hiểu biếtthương yêu, để được chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

   Ta phải sống làm sao để cho chí nguyện của mình ngày thêm lớn mạnh, vững vàng.  Ta càng lớn tuổi thì chí nguyện càng thêm bền bỉ, chắc thật, không bị mọi thế lực bên ngoài làm suy giảm. Nếu chí nguyện của ta bị lung lay bởi những danh vọng, lợi dưỡng, sắc đẹp, tiếng tăm chi phối, thì mình sẽ không thành công trên con đường tu tập, và  có khi bỏ cuộc nửa chừng. Ta phải giữ vững ý chílập trường, theo đuổi chí nguyện không một giây phút nào lơ là trong hiện tại, và phải biết sử dụng những giây phút đó để làm tròn ước nguyện.  

    Thế gian này là một dòng đời nghiệt ngã với vô vàn khổ đau, bởi do tham đắm, luyến ái, thương tiếc, nhớ nhung; vì yêu thươngxa lìa nên khổ, oán ghét mà gặp nên khổ, nên ta tu là chuyển khổ thành vui, chuyển mê thành ngộ, chuyển xấu thành tốt. Ta học hỏi Phật pháptu tập để giúp mọi người cùng nhau sống, có yêu thương bằng trái tim hiểu biết.

   Tâm nguyện hay chí nguyện là một nguồn năng lượng rất lớn không thể thiếu trong ta. Không có tâm nguyện đó thì mình khó bề vượt qua cạm bẫy cuộc đời, bởi sự hấp dẫn của lợi dưỡng, danh vọng, sắc đẹp và sự cung kính.

   Ta hãy nên tự hỏi rằng, mình có đủ sức mạnh và nguồn năng lượng đó hay chưa? Nếu chưa đủ thì ta vẫn phải thường xuyên quán chiếu, xem xét từng ý nghĩ, lời nói và hành động của mình; bằng không, chỉ cần một ngọn gió thổi tới, ta lại sẽ ngã quỵ như thường.

    Vậy chí nguyện của ta là gì? - Trên cầu thành Phật, dưới cứu độ tất cả chúng sinh. Ta có thật sự muốn đạt được những chí nguyện đó hay không? Nếu thật sự muốn hoàn thành chí nguyện lớn lao và cao cả đó, thì tại sao mình cứ dễ duôi buông trôi theo ngày tháng?

    Vậy chí nguyện của ta là biết kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống và mong mỏi tất cả mọi người cùng muôn loài đều được sống bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2759)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2234)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2663)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2365)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2676)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2446)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2324)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2415)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2548)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2219)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2585)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3054)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3008)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2572)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2612)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4113)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2780)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3073)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2521)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3009)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2875)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2617)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3193)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2393)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2488)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2604)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2693)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2756)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3274)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2561)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2603)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2827)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2920)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2951)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2725)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant