Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hòa thượng Thích Tín Nghĩa với thơ Thiền, Đạt MaHuyền Trang

04 Tháng Giêng 201816:02(Xem: 6441)
Hòa thượng Thích Tín Nghĩa với thơ Thiền, Đạt Ma và Huyền Trang

Hòa thượng Thích Tín Nghĩa với thơ Thiền, Đạt MaHuyền Trang

Sau bài giới thiệu “Đọc Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế của Thích Tín Nghĩa” phổ biến tới bạn đọc ngày 7/12/2017, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa lại gửi biếu tôi thêm hai cuốn sách :

- Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập tái bản lần thứ nhất 2013.

- Đạt MaHuyền Trang tái bản lần thứ ba 1998.

A) Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập bao gồm 4 bài thơ/bài kệ của tổ Giác Tiên, thơ/kệ của Tổ Khai sơn Trúc Lâm Đại Thánh tự Hòa thượng Thích Giác Tiên và Sư Bà Diệu Không được chính tác giả dịch nghĩa và chuyển qua thể thơ lục-bát như đã được giới thiệu trong bài viết nói ở trên. Phần chính của thi tập bao gồm 96 bài thơ của chính tác giả và được lấy tựa đề Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập cho thấy tác giảtruyền thừa của Thiền phái này.

Thơ Thiền hay Kệ tụng là nét độc đáo của Phật Giáo khởi đi từ lúc Đức Phật còn tại thế. Sau khi thuyết giảng bằng văn xuôi, Đức Phật thường tuyên lại ý đó bằng thơ và để rồi cô kết cả bộ kinh bằng thần chú. Khi Phật Giáo du nhập vào Trung Hoa, Việt NamNhật Bản là những quốc gia mà nền văn học đã lên tới đỉnh cao cho nên thơ Thiền nở rộ, khiến giáo lý mang thêm nét văn chương, không thể tìm thấy trong bất kỳ tôn giáo nào khác. Một số thơ Thiền của các vị Tổ lừng danh như Bồ Đề Đạt Ma, Lục Tổ, Vạn Hạnh, Mãn Giác, Trần Nhân Tông, Hương Hải Thiền Sư . . . đã trở thành Kệ, có giá trị đọc tụng như kinh điển và là tấm gương để noi theo và có thể nói bất tử trong dòng sinh mệnh Phật Giáo. Như vậy khi chúng ta thấy một tu sĩ Phật giáo “làm thơ” thì ta phải hiểu rằng các ngài dùng “thơ” để bày tỏ sự chứng đắc của mình hoặc mô tả đời sống thường nhật của một nhà tu hoặc răn dạy đồ chúng . . . Thế nhưng đôi khi thơ Thiền cũng mang nét “tự trào”. Trong thi tập này tôi chỉ đưa ra một vài bài thơ điển hình như bài thơ Vô Đề trang 43, tác giả làm tại Seattle, Washington năm 2003 :

Chung thanh điểm tam hồi,

Ngư ông điểm sổ bôi,

Thiền sư nhập đại định,

Oanh đề liễu thượng khai.

Tác giả chuyển sang lục bát :

Chuông khuya vừa điểm ba hồi,

Ngư ông ngồi uống một vài ba chung,

Thiền sư nhập định vừa xong,

Trên cây dương liễu chim oanh hát hò.

Qua bài thơ này thì thế giới của Thiền sưthế giới của thiên nhiên và rất thanh tịnh.

Rồi bài thơ Dong Ruổi, làm năm 1984 lúc hòa thượng còn rất trẻ.

Lang thang từ độ luân hồi,

Tử sinh nào biết, đất trời tiêu hao,

Hết ra rồi lại đi vào,

Nào ai tính sổ đâu nào mà lo.

Rồi bài thơ Đồng Tiền cho thấy sức mạnh của tiền bạc, ngày nay là đồng đô-la mà người Mỹ có câu nói, “No money, no honey” (Không tiền bạc thì đừng nói chuyện yêu đương) :

Trên đời quý nhất lại là tiền,

Tiền nói, tiền kêu để thành Tiên,

Chồng vợ anh em đều rút tỉa,

Mẹ cha, bè bạn cũng đua chen,

Nghĩa tình, tiền thiếu tình cũng bớt,

Hiếu sự, tiền dư hiếu cũng bền,

Suy gẫm cho cùng rồi cũng vậy,

Té ra, đời chỉ ngán đồng tiền.

Tuy nhiên đời tu không phải lúc nào cũng vui, có lúc phải cúi xuống nhặt tàn thuốc là mà Phật tử, thay vì quăng vào thùng rác, lại quăng bừa xuống đất. Hiện nay người Mỹ gần như đã bỏ được thói quen hút thuốc lá, nhưng Việt Nam lại là quốc gia hút thuốc lá nhiều nhất thế giới. Riêng tôi trước 1975 cũng là tay hút thuốc lá kinh khủng, không có loại nào mà không hút, từ Melia vàng, Basto Xanh, 555, Dun Hill, Craven A, xì gà, ống vố, cẩm lệ, thuốc rê, thuốc lào, Sông Cầu . . . tôi đã từng trải qua. Không điếu thuốc miệng lạt và thèm vô cùng. Đó gọi là ghiền/nghiện. Bỏ thuốc lá rất khó, nhất là thuốc lào với câu, “Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”. Thế nhưng khi vượt biển tới trại tỵ nạn Sungei Beisi Mã Lai năm 1984, tôi ngồi chép kinh Phật từ sáng tới trưa không hút điếu nào, khiến tôi chợt tỉnh, “À từ sáng tới giờ không hút điếu nào mà có sao đâu ?”. Từ đó tôi bỏ luôn thuốc lá, tính ra đến nay đã 34 năm mà chẳng thấy thèm thuốc và ăn cơm vẫn ngon miệng. Cảm giác lạt miệng khi không có thuốc lá là cảm giác giả tạo. Khi bạn bỏ thuốc lá, vị giác từ từ trở về trạng thái bình thường như lúc chưa hút thuốc. Hãy bỏ thuốc lá đi bạn ơi! Thuốc lá làm đen ngòm lá phổi mình và vợ con, ông bà cha mẹ trong nhà. Nhưng nếu lỡ có hút, xin đừng quăng mẩu thuốc lá xuống đất, trông vừa bẩn mắt vừa có nguy cơ gây hỏa hoạn.

Chúng ta hãy xem bài thơ Nhắn Nhủ của tác giả :

Ai ơi !

Hút thuốc liệng tàn,

Tàn liệng có nơi,

Hút rồi đừng liệng lôi thôi,

Để thầy cong lưng lượm,

Buồn ơi là buồn.

Và bài thơ Tự Vịnh hay tự trào :

Thiên hạ đua chen chuyện hơn thua,

Riêng tôi quanh quẩn với cảnh chùa,

Trưa trưa cúng ngọ, chiều chấp tác,

Sớm sớm trì kinh, tối công phu,

Mỏi gối hành Thiền, sức chẳng thiếu,

Mòn tay lần chuỗi, nguyện vẫn thừa,

Mấy chục năm rồi chưa thấy Phật,

Té ra nghĩ lại : Vụng đường tu.

Thưa Thầy, đã có ông Phật ở trong tâm rồi thì đâu còn thấy ông Phật ở bên ngoài nữa có phải vậy không Thầy ? Tu là nhìn, lạy ông Phật bằng gỗ đá mà biến thành ông Phật thật trong tâm mình, đó là chân tu.

Tôi xin kết thúc phần giới thiệu thơ ở đây để mời quý vị bước qua phần biên khảo về Tổ Đạt MaHuyền Trang.

B) Đạt MaHuyền Trang :

Đây có thể là cuốn sách biên khảo khá đầy đủ, hấp dẫn về hai huyền thoại lớn nhất của Phật Giáo Trung Hoa ảnh hưởng tới Việt Nam, Nhật Bản. Sách xb năm 1989 và đã tái bản ba lần.

1) Bồ Đề Đạt Ma :

Bồ Đề Đạt Ma là Tổ thứ thứ 28 của Thiền Tông Ấn Độ và là vị Tổ thứ nhất của Thiền Tông Trung Hoa. Vì có quá nhiều điều kỳ bí xoay quanh cuộc đời của ngài cho nên nảy ra quan điểm cho rằng đây chỉ là nhân vật trong huyền thoại chứ không có thật. Trong tinh thần của một nhà biên khảo khách quan, tác giả đã thẳng thắn trình bày cả những tài liệu, luận cứ cho rằng Bồ Đề Đạt Ma chỉ là một huyền thoại, trong đó :

- Trong cuốn Lăng Già Tự Sự của Tịnh Giác (thế kỷ thứ 8) cho rằng chính Câu Na Bạt Đà La là vị Tổ thứ nhất của Thiền Tông Trung Hoa chứ không phải Bồ Đề Đạt Ma.

- Theo tác giả người Pháp Paul Demieville, trong cuốn Consile de l’hasa đã cho rằng, “Nguyên trước Thiền Tông có tên là Lăng Già Tông. Tác giả của Lăng Già Sự Tư Ký đã có lý khi nhận định rằng Câu Na Bạt.

Đà Latổ sư đầu tiên của Thiền Tông và là người dịch Kinh Lăng Già ra Hán Văn.

-. Trong cuốn “Phật Giáo : Bản Chất và Sự Phát Triển”, Edmond Conzé cho rằng, “Mãi đến 80 năm sau (năm 520) Bồ Đề Đạt Ma tới Quảng Châu và cũng chỉ là nhân vật hoang đường.”

Thế nhưng Bồ Đề Đạt Ma là nhân vật có thật qua các tài liệu và luận cứ :

- Học giả Phùng Hữu Lan tin rằng Bồ Đề Đạt Ma đã đưa Thiền Tông vào Trung Hoa.

- Trong thiên khảo luận “Indian Influence on China Thought”, học giả Ấn Độ Pradodh Chandra Bagchi đoan chắc Bồ Đề Đạt Ma là nhân vật có thật, một mẫu người lịch sử, Ngài đến Trung Hoa và tiền bán Thể Kỷ VI

- Sau này các nhà biên khảo như: Watts, Suzuki, Hébert, Sasaki, Watanabe, Dumouline . . . đều xác nhận Bồ Đề Đạt Ma đã khai sáng Thiền Tông Trung Hoa.

Vậy thì Bồ Đề Đạt Ma là người như thế nào ?

- Ngài thuộc dòng Sát Đế Lợi (Võ Quan), con thứ ba của Vua Chi Vương nước Nam Thiên Trúc (Cao Nguyên Dekkan, Deccan Plateau bao gồm trung và nam Ấn Độ). Nhân ngày lễ đức vua cúng dường trai tăng, Ngài Bát Nhã Đa La (Prajnatra) - vị tổ Thiền Tông Ấn Độ thứ 27 thấy vị hoàng tử này có nhiều nét đặc biệt về phong thái, ngôn ngữluận bàn về chữ Tâm. Ngài bèn thu nhận làm đệ tử. Một hôm ngài gọi Bồ Đề Đạt Ma tới truyền pháp và nói rằng, “Sau này sang Trung Hoa (Đông Thổ) mới là nhân duyên lớn. Song hãy chờ ta diệt độ khoảng 60 năm rồi hãy đi. Nếu ngươi đi sớm e có sự kiện không tốt.”

- Sau một thời gian giáo hóa ở trong cung, năm 517, Bồ Đề Đạt Ma đem lời sấm ký trình lên vua cha. Đức vua không cản và sai đóng thuyền, phái thủy thủ đưa ngài sang Trung Hoa.

Theo tài liệu viết băng chữ Hán của ngài Ấn Thuận- đệ tử lớn của Thái Hư Đại Sư thì Tổ Đạt Ma đã đến Việt Nam (Miền Bắc) trước rồi mới ghé Quảng Châu. Ngài đến Quảng Châu vào đời Nhà Lương. Thiên sứ ở tỉnh này ra tận thuyền đón ngài và dâng sớ tâu lên Lương Võ Đế. Và sự nghiệp hoằng pháp lúc suôi dòng, lúc gặp thác ghềnh của ngài bắt đầu. Theo sự luận giải của Đại Sư Suzuki thì, “Thiền Tông truyền thừaẤn Độ thường nặng về huyền bí, khó hiểu, xa rời uyên nguyên của Thiền học. Thiền Tông phải cần đến một tâm hồn đã từng thấm nhuần tư tưởng Lão-Trang mà vẫn không thể tách ra ngoài tình tiết của cuộc sống hàng ngày.”

- Khi ngài đến Trung Hoa thì Phật Giáo Trung Hoa đang đắm chìm trong hình thức (chấp sắc, chấp tướng) mà xa lìa cốt tủy của Thiền hay của Phật Giáo. Chính vì thế mà cuộc hội kiến giữa ngài và Lương Võ Đế không đem lại kết quả nào.

- Thế nhưng sau chín năm “diện bích” giáo lý và cách truyền đạo của ngài vang dội như sấm nổ và nó vẫn còn là mạng sống của Thiền Tông cho tới ngày hôm nay. Giáo lý đó rất đơn giản và cô kết bằng bốn câu như sau :

Giáo ngoại biệt truyền,

Bất lập văn tự,

Trực chỉ chân tâm,

Kiến tánh thành Phật.

Bốn lời dạy này có thể hiểu như sau :

Không có bộ kinh nào là riêng của Thiền. Tất cả đều là kinh của Thiền.

Cho nên không cần lập văn tự, nhưng cần tỏ ngộ chứng đắc.

Pháp chỉ hay nhất là nhìn thẳng vào Tâm mình, đừng tìm đâu khác.

Thấy tánh Phật, thấy tánh Không thì thành Phật. (*)

Theo tác giả, khi dòng Thiền truyền tới Ngài Huệ Năng thì Thiền không còn mang bản sắc Ấn Độ nữa mà hoàn toàn mang vóc dáng, đặc trưng Trung Hoa và được truyền qua năm đời : Huệ Khả (486-593), Tăng Xán (606), Đạo Tín (580-651), Hoằng Nhẫn (601-674), Huệ Năng (638-713).

Quý vị nào muốn biết thêm về “huyền thoại Đạt Ma” cùng lời dạy của ngài xin đọc thêm tại sách.

2) Huyền Trang

Ngài Huyền Trang sinh ra vào cuối đời Nhà Tùy, đầu Nhà Đường đã bỏ ra 16 năm băng rừng, lội suối, trèo non, sa mạc sang Ấn Độ thỉnh kinh và trở thành một huyền thoại được Ngô Thừa Ân tiểu thuyết hóa rồi đóng thành phim Tây Du Ký khiến làm say mê bao thế hệ Trung Hoa và Việt Nam. Theo tác giả, Ngài Huyền Trang hướng về Tây giữa lúc:

- Phật Giáo Ấn Độ đang ở thời kỳ suy vi. Cuộc xâm lăng của Hung Nô phá tan nhiều chùa chiền, kinh điển cũng như những thánh tích của Phật Giáo. Ấn Độ suy yếu vì sự tranh hùng giữa các tiểu quốc, sự quật khởi của Bà La Môn.

- Trong khi nước Trung Hoa có quá nhiều đạo như: Đạo Giáo của Lão Tử, Bái Hỏa Giáo xuất phá từ Ba Tư truyền vào Trung Hoa dưới thời Nam-Bắc Triều, Ma Ni Giáo biến thái của Bái Hỏa Giáo, Cảnh Giáo là một chi phái của Cơ Đốc Giáo sáng lập tại vùng Trung Đông.

Con đường thỉnh kinh của Huyền Trang là bước đường gian lao khôn tả :

- Qua Sa Mạc Gobi, len lỏi trong rừng già bị lính biên phòng bắn một mũi tên vào đùi máu ra lai láng, lấy lá cây đắp vào vết thương, lầm lũi tiến lên phía trước một mình, không có Tôn Ngộ Không, Chư Bát Giới và Sa Tăng theo hộ vệ.

- Tới Thị Trấn Hami của nước Turfan, Vua Chu Wen Tai muốn ngài ở lại lâu để giúp cho đạo pháp, lãnh đạo giáo hội, nhưng ngài cương quyết ra đi khiến nhà vua cảm động rơi nước mắt khi ngài chỉ nhận lương thực cho ba ngày ăn.

- Tới Kucha- một trung tâm quan trọng ở vùng Trung Á ảnh hưởng bởi nền văn minh Ba Tư và ngài lưu lại ở đây hai tháng. Ngài đã thảo luận về đạo pháp với chư tăngnhận thấy, “Chủ trương, giới luật tuy khác nhau nhưng quả thật nền văn hóa Phật Giáo bành trướng tại tiểu quốc này đã tạo cho con người hoang dã một nép sống thuần thành, sâu sắc và độ lượng.”

- Một mình chống gậy đi tới vùng Bail, rồi đến vùng nước ấm Issy-Rul, ngài tiếp xúc với Đại Hãn (Khan). Vua Đại Hãn trước vốn là một tăng sĩ hiểu sâu về Phật Giáo cho nên tiếp ngài rất trọng thể, có cả triều thần, sứ giả đến dự. Khi giã từ, nhà vua đã sai một đội cận vệ tiễn chân ngài qua hai vùng đất hiểm trở là Pamirs và Bactria.

- Khi tới Samarquand là kinh đô của tiểu quốc Sogdiana, ngài nấn ná ở đây một thời gian để phát huy tư tưởng Phật Giáo là vùng pha trộn giữa Bái Hỏa GiáoPhật Giáo.

- Xuôi xuống hướng nam, ngài vượt qua đất Thổ (Pakistan) là Vùng Cổng Sắt (Gate of Iron) phân ranh hai nền văn hóa. Tân quân vốn là người mộ đạo, cung thỉnh ngài đến kinh đô Balk là nơi có nhiều chùa chiền nguy nga, theo Tiểu Thừa, dù một số chùa đã bị tàn phá khi Hung Nô tiến vào vùng này.

- Khi tới vùng Bamiyan ở đây có đến mấy trăm ngôi chùa đồ sộ, hiếm thấy nơi nào có mức sống như vậy, tính ra có đến cả ngàn nhà sư tu hành. Tại đây có hai tượng Phật khổng lồ cao tới 34 mét và 51 mét.

- Rời khỏi xứ Bamiyan ngài tiến tới vùng Kapiya rồi phải băng qua dãy núi Shibar với độ cao 2700 mét rồi một cơn bão thổi tới khiến ngài lạc đường. May nhờ các thợ săn chuyên nghề, rành đường mà ngài mới có thể định được hướng và tiến tới Kapisa- một địa danh ở bắc Kabul thuộc A Phú Hãn. Đây là một trung tâm thương mại sầm uất nằm trên trục lộ Ấn Độ-Bactria. Vị vua ở đây là một tín đồ Phật Giáo Đại Thừa và ngài có dịp tiếp xúc với triết gia Pranakara.

- Sau mùa thu năm 630, ngài từ giã Kapisa tiến về Jalababad, sau đó đến Lampaka là vùng đất màu mỡ, đâu đâu cũng trồng lúa và mía. Người dân ở đây hồn nhiên tới nỗi khi giao thương với những người xứ khác họ đều bị lường gạt, nhưng họ là những người mộ Đạo Phật. Ngài được vị cao tăng trong vùng hướng dẫn tới chiêm bái một Phật tích nổi tiếng nhất xứ này, đó là căn nhà của tên cướp lừng danh Gopata được Đức Phật giáo hóa.

- Tại tiểu quốc Peshawar nằm ở tây bắc Ấn Độ nằm ở thượng lưu Sông Hằng. Đây là chiếc nôi của nền văn minh Phật Giáo Ấn Độ nhưng đã bị giống dân Phương Tây xâm lăng vào đầu thế kỷ Tây Lịch mà khi ngài đến đó tiểu quốc này vẫn chưa hồi sinh với “tâm cảm bùi ngùi”.

- Rời Peshawar, ngài tới Kashmir, phải băng qua một rặng núi lớn và nhuốm bệnh, phải lưu lại hơn bốn tháng. Rồi ngài đi vào vùng Udyama là vùng núi hiểm trở cho nên vẫn còn giữ lại được những di tích lịch sử qua cuộc xâm lăng của Hung Nô. Nơi đây vẫn còn 1400 ngôi chùa và 18,000 vị tăng. Udyama cũng còn chịu ảnh hưởng của Phù Chú Giáo. Tại Kashmir ngài đã tìm được bản gốc của các bộ kinh: Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhứt A Hàm, Tiểu A Hàm. Những Luận Tạng gồm có 7 bộ. Cũng tại đây ngài đã thọ giáo vị cao tăng Maha Yamist đã 70 tuổi nhưng là luận sư/nhà lý luận Phật Giáo bậc nhất của Ấn Độ vào Thế Kỷ thứ VII

- Tới Sakala còn gọi là Sialkot - vùng chịu nhiều ảnh hưởng của Hồi Giáo, chứng kiến cuộc tranh chấp giữa Phật GiáoHồi Giáo và ngài đã khuyên tín đồ hai bên cần nhẫn nhục.

- Rời Sakala ngài đến Cinabkukti (năm 633) một tiểu quốc còn phôi thai. Dân ở đây sống bằng nghề săn bắn và chăn nuôi, theo Phù Chú Giáo và không hiểu mấy về tư tưởng và tổ chức Phật Giáo.

- Năm 634 ngài đến Mathara một đô thị cổ và có trình độ văn hóa cao, Phật Giáo phát triển rất mạnh và theo truyền thuyết đã có những cơ sở ấn loát kinh điển Phật Giáo. Và ngài đã bỏ nhiều thì giờ để khảo sát và chiêm bái vùng này.

Phần cuối cùng của sách, tác giả còn viết lại huyền thoại về cuộc đời của thân phụ, thân mẫu của ngài đã được mô tả trong cuốn phim Tây Du Kýso sánh nhân vật Huyền Trang qua hai bộ Tây Vức Kỳ và Tây Du Ký. (**)

Theo Tây Vức Ký, khi trở về, ngài đã bỏ công dịch thuật rất nhiều bộ kinh nhất là Duy Thức Luận của ngài Long Thọ, Mã Minh,Vô TrướcThế Thân tạo ảnh hưởng rộng lớn tại Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và khắp vùng Đông Nam Á

Theo Tây Du Ký, khi ngài Huyền Trang trở về được Vua Đường Thái Tông tiếp đón cực kỳ trang nghiêm và ngài thuật lại quá trình đi Tây Trúc, thỉnh được 5048 cuốn thuộc 35 bộ chánh kinh.

Theo cảm nhận của tôi, Ngài Huyền Trang là một vị Thánh, là danh nhân của thế giới với chuyến viễn du thỉnh kinh, khảo cứu bằng đường bộ xuyên lục địa chưa từng có trong lịch sử loài người.

Qua những gì mà ngài Huyền Trang ghi lại trong chuyến đi từ Trung Hoa sang Ấn Độ chúng ta thấy những nước nào mà Phật Giáo thịnh hành, người dân sống hiền hòa, văn hóa phát triển, phụ nữ được tôn trọng. Còn nơi nào mà Phật Giáo bị hủy diệt như Ấn Độ thì mê tín dị đoan lan tràn, phụ nữ bị coi rẻ, văn hóa ngưng trệ, đất nước suy yếu. Riêng tại những quốc gia trước đây theo Phật Giáo mà bị Hồi Giáo hủy diệt như Pakistan (Hồi Quốc), A Phú Hãn (Afghanistan) thì đất nước sống trong u ám, văn hóađời sống không phát triển, thiếu tính nhân bản, tu sĩ và giới cầm quyền trở nên vô cùng cực đoan, trói buộc trong giáo điều cứng nhắc và tôn thờ bạo động. Do đó những ai nói rằng những nước theo Phật Giáo đều chậm tiến, họ đều không hiểu biết gì về lịch sử thế giới và nhắm mắt trước giá trị Nhân Bản, Trí Tuệ, Khai Phóng và Hòa Bình của Phật Giáo.

Đây là cuốn sách rất có giá trịchúng ta cần đọc. Quý vị nào muốn có sách xin liên lạc :

Tổ Đình Từ Đàm Hải Ngoại  -  615 North Gilbert Rd. -  Irving , Texas 75061-6240

Điện thoại : (972) 986-1019   -  Điện thư : tudamhaingoai@gmail.com

Đào Văn Bình   -  California ngày 4/1/2108)

(*) Hoàn toàn khế hợp với Bát Nhã Tâm Kinh. Chiếu kiến thấy “Ngũ Uẩn Giai Không” và “Thị chư pháp không tướng” thì xa lìa mọi vọng tưởng điên đảothành Phật.

(**) Cuốn phim Tây Du Ký được chiếu đi chiếu lại trên chương trình truyền hình 26 của người Hoa ở San Francisco với cái tên, “Journey to the West” hay “The Monkey King”.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11252)
Trước khi khởi sự tu tập để phát huy lòng từ bi và tình thương, cũng cần nên tìm hiểu ý nghĩa của hai chữ ấy là gì...
(Xem: 11445)
Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy Phật tánh nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sanh tử.
(Xem: 9886)
Phàm những gì có hình tướng thì tất cả đều bị chi phối bởi sự vô thường, mà đã vô thường thì nguyên nhân chính của nó là khổ...
(Xem: 11354)
Lúc ấy Đức Thế Tôn đã ôn tồn mà nói cùng đại chúng: “Này A Nan! sau khi ta diệt độ các ông hãy nương tựa vào chính mình và hãy lấy giới luật làm thầy.”
(Xem: 9153)
Tất cả những giáo lý của Đức Phật căn cứ trên Bốn Chân Lý Cao Quý. Trong giáo lý Bốn Chân Lý Cao Quý chúng ta nhận ra hai tập hợp của nguyên nhân và hệ quả.
(Xem: 9723)
Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần , nhất là việc tu tập v.v...
(Xem: 9809)
Một trong bốn chân lýĐức Phật dạy là chân lý về sự khổ, khổ đế trong Tứ diệu đế. Đức Phật dạy bản chất của thế gian là bất toàn, bất toại nguyện, là vô thường, là đau khổ.
(Xem: 13789)
Chẳng có gì đơn độc sinh ra, tồn tại, chuyển động, và biến mất giữa cõi đời. Chẳng có gì gọi là độc hành, độc lập, độc bộ, độc cư, cô thân, cô độc, cô đơn…
(Xem: 9803)
Đâu hay tất cả đều là sự công bằng tuyệt đối khi ta soi vào nhân duyên nghiệp báo không chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứvị lai được giải thích cặn kẽ trong kinh điển nhà Phật.
(Xem: 12893)
Vận nước như dây quấn, Trời Nam mở thái bình, Vô vi ở điện các, Chốn chốn dứt đao binh...
(Xem: 9894)
Trong giáo lý của đạo Phật, “cho sự không sợ hãi” được xem là một hạnh nguyện cao quý gọi là vô úy thí (abhada-dàna), là Thánh hạnh (Ariya-cariyà), thiện hạnh (kusala- cariyà)
(Xem: 10440)
"Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại..."
(Xem: 17206)
Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ - Trôi chảy mãi ngày đêm không ngừng nghỉ như thế này ư?
(Xem: 9354)
"Từ lúc này cho đến hết ngày hôm nay, tôi sẽ đưa vào sự thực tập những gì tôi tin tưởng một cách tối đa như tôi có thể"...
(Xem: 10571)
Khi trải qua một cơn bạo bệnh hay tuổi đã xế chiều thì ý niệm về lão-bệnh-tử, tức phải đối mặt với sự chết hiện ra ngày một rõ ràng hơn...
(Xem: 14235)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 10000)
Tôi đến chùa Viên Đức, Đức quốc vào thứ 6, tưởng là sớm, tới nơi lúc 22 giờ 30 Phật tử đã đông nghẹt, mọi phòng đều chật cứng nằm xếp lớp...
(Xem: 11446)
“Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó."
(Xem: 9283)
Sau khi quy y Tam bảo, trở thành Phật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật.
(Xem: 11380)
Đọc trong “Tưởng Niệm và Tri Ân,” người đọc sẽ thấy nhà thơ trẻ của chúng ta lúc nào, ở đâu và đối với bất cứ điều gì cũng nghĩ đến ân đức và tình nghĩa.
(Xem: 10859)
Bài phát biểu của của đô đốc William McRaven, người đứng đầu Bộ chỉ huy Các chiến dịch liên hợp đặc biệt - NAVY SEAL - MỸ
(Xem: 14590)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 10573)
John Stuart Mill: “Tôi đã học cách tìm hạnh phúc bằng cách giới hạn các ham muốn của mình hơn là nỗ lực để thỏa mãn chúng”
(Xem: 9391)
Có lẽ ngày nay nhân loại đã thực sự thức tỉnhnhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai...
(Xem: 13439)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 9793)
“Người ngu thấy là ngọt, Khi ác chưa chín muồi; Ác nghiệp chín muồi rồi; Người ngu chịu khổ đau”.
(Xem: 13998)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 20294)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 10221)
Ta giao tiếp với bạn bè điều tối kỵ nhất là nói về lợi và đừng bao giờ dùng thủ thuật về lợi để mưu cầu.
(Xem: 8653)
Bệnh tật là một nỗi khổ căn bản của chúng sanh, sanh lão bệnh tử khổ. Hễ có thân thì có bệnh, mà đã bệnh tật đau yếu thì không ai muốn và chẳng vui chút nào.
(Xem: 9723)
Nghiệp là một thói quen được tích lũy từ ba nghiệp thân, khẩu, ý, đồng hành với chúng ta trong từng hơi thở, gắn bó thủy chung từ khi ta vừa lọt lòng mẹ cho đến ngày ta nhắm mắt xuôi tay.
(Xem: 8773)
... những câu chuyện buồn và bất hạnh bao giờ cũng để lại những vết khắc sâu thẳm trong tim, khó mà nguôi ngoai dễ dàng.
(Xem: 11026)
Chúng ta đến đây với những giọt nước mắt để hết sức mở một con đường, để rẽ sóng mà đi trên biển đời vô tận.
(Xem: 12541)
Phật tử, chúng ta cần phải nhận định rõ ràng, đức Phật không phải là một vị thần hay thượng đế để ban ơn, giáng họa cho bất cứ ai.
(Xem: 28078)
Tôi tin rằng mọi khổ đau đều sinh ra từ ngu muội. Người ta gây ra đau đớn cho người khác, khi ích kỷ theo đuổi hạnh phúc hay thỏa mãn riêng mình...
(Xem: 10632)
Một vài chiếc thuyền máy lướt qua, tạo những vòng sóng từ nhỏ đến lớn, tỏa ra rồi tan biến trên mặt hồ. Bọt trắng lao xao nổi bật trên giòng nước xanh.
(Xem: 9797)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đềgiác ngộ thành Phật.
(Xem: 11846)
Nhờ chút công đức phóng sanh ngày ấy cho mẫu thân mà tôi cũng được hưởng phước lây, bởi căn bệnh lạ tôi phải chịu đựng 25 năm qua bỗng dưng ra đi không nói lời từ biệt.
(Xem: 10443)
Sống làm sao cho cuộc đời trở nên đáng sống, có ý nghĩa, có lý tưởng, có thương yêu hiểu biết thì đó là Đời Đạo.
(Xem: 8899)
Nhà Phật thường nêu châm ngôn “Bi – Trí – Dũng” để khuyến khích hành giả vận dụng đầy đủ ba đức tính này trong đời sống, không để khiếm khuyết mặt nào.
(Xem: 10549)
Tôi ngồi lặng lẽ, nhìn những lá phong vàng sậm và đỏ ối, âm thầm rơi trong không gian tinh mơ quanh khu nhà quàn. Thấp thoáng vào, ra, là những người chít khăn tang trắng, gương mặt phờ phạc, buồn rầu.
(Xem: 8927)
Cuộc đời của đức Phật rất vĩ đại, vô vàn những điều hay, chúng ta không tài nào học hết được.
(Xem: 9907)
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương y vô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever.
(Xem: 9563)
Ngọn núi cao như Hy Mã Lạp Sơn cũng từ một hạt bụi mà thành. Đại dương mênh mông như Biển Thái Bình cũng do từng giọt nước mà có.
(Xem: 13964)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 16138)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 11762)
Hoan hỷ trong mùa Phật Đản đang về, xin cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc Thầy vĩ đại của thế gian, bậc trí tuệ tối thắng không ai bằng.
(Xem: 9052)
Tham lam cũng giống như áng mây mù dày đặc nhưng đôi lúc chúng ta thường gặp ở miền đồi núi, khiến chúng ta không thấy rõ đường đi trước mặt mình.
(Xem: 17694)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 9924)
Thật hạnh phúc có được một bậc thầy như Người: Đức Phật. Người đã đến thế giới này để mở lối đi cho tất cả... Vĩnh Hảo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant