Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cõi Nước Tây Phương Cực LạcThật Không

10 Tháng Tư 201804:54(Xem: 10337)
Cõi Nước Tây Phương Cực Lạc Có Thật Không
Cõi Nước Tây Phương Cực LạcThật Không

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Tâm Hồng Danh Chiếu Ra Miền Cực Lạc 1


Trong cái thấy biết mọi hình ảnh sự vật, chúng ta chạy theophân biệt là gốc vô minh; trong cái thấy biết, thấy chỉ là thấy không phân biệt là Niết-bàn.

Đứng trên phương diện thực tế trong cuộc sống, chưa có ai từng biết rõ thế giới Tây phương cực lạc ra sao? Và cũng chưa có ai dám xác định rõ ràng hoặc đã từng sinh hoạt ở cõi đó? Một ví dụ rất thực tế, tôi chưa từng đến đất nước Ấn Độ, nhưng tôi có thể biết qua phim ảnh sách báo hoặc truyền thông Internet toàn cầu. Nhờ vậy tôi có thể biết rõ đất nướcẤn Độ mà không cần đến nơi, đó là một sự thật không ai có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, nếu quan niệm thế giới Cực lạc là thế giới lý tưởng, thì chúng ta phải y cứ vào kinh văn dođức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng hơn ba mươi ngànbài kinh. Từ đó chúng ta có thể đối chiếu và so sánh, để tìm ra tiếng nói chung và đây là suy nghĩ của riêng cá nhân chúng tôi. Sau đây chúng tôi trích nguyên văn trong Kinh A Di Đà ở phẩm Điện kiện vãng sanh:

Điều kiện vãng sinh: Này Xá-lợi-phất, bất luận nữ nam, muốn được vãng sanh, thì hãy chuyên cần, khởi lòng  khát  ngưỡng,  nhớ  nghĩ  không  quên, thực  tập  quán  niệm,  “nhất  tâm  bất  loạn,” trong  vòng  một  ngày,  cho  đến  bảy  ngày. Trong giờ  phút  này,  tâm  ý  người  ấy  phải thật  yên  tĩnh,  như  vào  thiền  định,  không còn  tán  loạn,  đảo  điên  mộng  tưởng. Đến lúc qua đời, Phật A-di-đà, thánh chúng hà sa, dang tay tiếp dẫn, khiến được vãng sanh, dự hàng chúng thánh, không hề chia phân.  Này Xá-lợi-phất, vì nhìn thấy được lợi lạc hà sa do niệm Di-đà, ta khuyên các vị, hãy nên chuyên tâmniệm Phật vãng sanh.

Lời bàn: Trong phần này nội dung chính để quyết định vãng sanh đó là câu “nhất tâm bất loạn” Có lẽ các nhà Phật học cũng đã từng bàn luận về câu này rất nhiều tức là một tâm không loạn. Một tâm không loạn phải từ một ngày cho đến bảy ngày thì Phật A Di Đà và Thánh chúng sẽ rước về cõi Tây phươngCực lạc? Một câu hỏi được đặt ra, tâm không loạn là gì? Các nhà nghiên cứu thường lầm lẫn chỗ này, tâm không loạn và nhất niệm tương ưng khác nhau một trời một vực. Một đàng là còn niệm, một đàng là vô niệm, tuy vô niệm nhưng vẫn thường biết rõ ràng nói không thể đến. Nhất niệm tương ưng tức là câu niệm Phật đó đã thành phiến, thành đá rồi tức là còn niệm, nhưng mà thuần nhất chỉ một niệm. Chữ niệm ở đây có hai nghĩa, một là nhớ, một là niệm danh từ đại khái giống như đọc thần chú vậy! Mà còn niệm là còn luân hồivô niệm tức vô sinh an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh vì không còn đến đi.

Giải thích ý nghĩa Cực lạc tức là không còn khổ còn vui, như vậy sẽ đồng nghĩa với Niết-bàn tức vô sinhVô sinh là không còn khổ vui mà vẫn thường biết. Ai biết? Thì rõ ràng đây là cảnh giới Niết-bàn chứ không phải là cõi nước nữa….Học Kinh Phật chúng ta biết ý sâu xa ở chỗ nào? Nếu luận trên ngôn ngữ thì càng bị ngôn ngữ trói buộc, các nhà Phật học cần phải thoát ra….

-Kế đến chúng ta sẽ luận về tâm, tâm thì có hai phần tâm vọng và tâm chơn. Tâm là một danh từ ai cũng có thể nói được, nhưng tâm là gì thì chẳng ai biết rõ ràng. Cái gốc của Phật pháp chính là tâm. Người học Phật pháp phải biết rõ nguồn gốc đó chính là tâm của mình chứ chẳng phải tìm cầu nơi khác mà được. Trong thực tế cuộc sống, Phật giáo là nền giáo dục nhân bản, giúp cho con người nhận ra tâm pháp để giác ngộgiải thoát và thành Phật ngay nơi thân này.

Nhưng tâm chia ra làm hai phần: Tâm chơn còn gọi là tâm thường biết rõ ràng, tâm vọng còn gọi là tâm phân biệt hư dối. Tâm chơn thì không thể dùng lời nói luận bàn, hay ý thức suy nghĩ mà được, chỉ thấy nghe hay biết mà không vọng động, hình ảnh sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó. Tâm vọng hư dối là hay suy nghĩ phân biệt tốt xấu, đúng sai, ta người…..

Tâm vọng hư dối là "cái hiểu biết phân biệt tốt xấu, đúng sai", hay còn gọi là phần tinh thầnTâm khôngcó hình tướng dài, ngắn, vuông, tròn, hay có màu sắc xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, nâu. Chúng ta không thể dùng con mắt mà thấy được tâm; cũng không thể dùng tay chơn sờ mó rờ đụng được tâm; chỉ thấy cái tác dụng của nó qua mắt tai mũi lưỡi thân ý, nên biết có tâm.

Tâm chân thật được hiển lộ qua sự thấy và nghe, khi thấy chỉ là thấy mà vẫn thường biết rõ ràng mọi hình ảnh sự vật, màu sắc xanh, trắng, đỏ, vàng. Khi nghe chỉ là nghe mà không dính mắc vào âm thanhlớn nhỏ, dễ chịu hay không dễ chịu, nhờ vậy ta luôn sống với tính nghe thường hằng.

Cũng như "điện", người ta không thể thấy nghe hay rờ mó được điện; chỉ do thấy cái tác dụng của nó mà biết có điện. Như cho điện vào bóng đèn thì thấy đèn sáng, cho điện vào quạt thì thấy quạt xoay, cho điện vào bàn ủi thì thấy nóng, cho điện vào tủ lạnh thì thể lỏng đông đặc lại v.v…. Chính vì vậy mà người ta biết là có điện. Tâm Phật cũng lại như thế, vì nó có tác dụng thấy, nghe hay biết nương nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà không dấy niệm phân biệt tốt xấu, đúng sai v.v… nên chúng ta biết là có tâm Phật sáng suốt ngay nơi thân này.

Đây mới là vấn đề quan trọng trong việc tu hành, ai có tu sẽ có lúc thể nhập được tâm Phật ngay nơi thân của mỗi người. Chỗ này người tu thiền gọi tâm đang tan hòa vào hư không mà vẫn thường biết rõ ràngHành giả chuyên tu thiền sẽ thể nhập chỗ này rất nhiều, nhưng chỉ lóe lên rồi hết hoặc chỉ là một thời gian ngắn vài ba phút…..?

Ở đây Phật dạy phải nhất tâm bất loạn từ một ngày đến bảy ngày thì Phật sẽ rước về Cực lạc….? Cho đến tận bây giờ chưa có ai dám xác nhận cõi Cực lạc ở đâu, trong văn kinh nói vô số ức kiếp về hướng Tây. Nhưng thể nhập tâm trong vài ba phút hoặc một hai giờ thì các hành giả tu thiền….có thể trải nghiệm được. Bàn đến đây chúng ta đã tìm ra yếu chỉ của một tâm không loạn. Hành giả tu thiền muốn tâm không loạn phải làm sao?

Đối chiếu kinh Lăng Nghiêm: Mắt của chúng ta thấy tất cả mọi hình ảnh sự vật, biết được rõ ràng các màu sắc xanh, đỏ, trắng, đen, nâu, vàng v.v… Cái biết này không thuộc về con mắt mà nương nơi mắt để thấy biết rõ ràng hình ảnh màu sắc một cách không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó, nên gọi là nhãn thức, cái biết nương nơi mắt, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế.

Trong Kinh Lăng Nghiêm vua Ba-tư-nặc đứng dậy bạch Phật: Con xưa nay chưa từng nghe sự chỉ dạy của Phật, gặp bọn Ca-chiên-diên, Tỳ-la-chi-tử đều nói: “Thân này sau khi chết không còn gì nữa, gọi là Niết-bàn.” Nay con tuy gặp Phật vẫn còn hồ nghi “làm sao phát huy chứng biết chỗ tâm này chẳng sanh chẳng diệt”?

Phật hỏi: Đại vương! Sắc thân hiện tại của ông là thường trụ chẳng hoại hay là biến hoại? Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay sinh diệt thay đổi liên tụcPhật bảo: Đại vương! Ông chưa từng diệt làm sao biết nó diệt? Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Thân biến hoại vô thường của con tuy chưa từng diệt, song con xem hiện tiền niệm niệm đổi dời luôn luôn chẳng dừng, như lửa tàn thành tro dần dần tiêu mất, nên con có thể biết thân này sẽ từ từ bị tiêu diệt.

Phật bảo: Đại vương! Đúng thế. Nay ông đã già đi theo thời gian, nhan mạo đâu giống lúc còn trẻ? Vua thưa : Bạch Thế Tôn! Thuở xưa con còn trẻ da dẻ tươi nhuận, đến lúc trưởng thành khí huyết sung mãn, nay con già cả suy yếu hình sắc khô khan, tinh thần mờ tối, tóc bạc mặt nhăn không còn bao lâu sẽ chết, làm sao sánh được với lúc khỏe mạnh sung mãn?

Phật bảo: Đại vương! Hình dung của ông đâu có thể già liền? Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Nó thầm biến hóa đổi dời thật con chẳng biết, nóng lạnh đổi thay dần dần đến như thế. Vì sao? Khi con hai mươi tuổi tuy nói còn trẻ, hình tướng mặt mũi đã già hơn lúc mười tuổi, đến ba mươi tuổi lại suy hơn hai mươi tuổi, nay con đã sáu mươi hai tuổi rồi nhìn lại khi mới năm mươi tuổi rõ ràng cường tráng khỏe mạnh.

Kính bạch Thế Tôn! Sự thầm đổi dời tuy đặt thời hạn mười năm, song con suy xét kỹ nó biến đổi đâu những mười năm hai mươi năm, mà thật dời đổi từng năm; đâu chỉ từng năm, mà dời đổi từng tháng, đâu những từng tháng mà dời đổi từng ngày. Nhưng nếu suy xét chín chắn tế nhị hơn thì khoảng mỗi sát-na, mỗi niệm luôn đổi dời. Vì thế, nên con biết thân này trọn theo sự biến diệt.

Phật bảo: Đại vương! Ông thấy sự biến hóa đổi dời chẳng dừng, ngộ biết thân ông tiêu diệt; cũng chính khi diệt đó, ông biết trong thân có cái chẳng diệt chăng? Vua chấp tay bạch Phật: Thật con chẳng biết.

Phật bảo: Nay tôi chỉ cho ông biết cái tánh chẳng sanh diệt đó. Đại vương! Ông khi mấy tuổi được thấy sông Hằng? Vua thưa: Khi con được ba tuổi mẹ bồng đi yết kiến Thần Kỳ Bà Thiên ngay nơi sông này, khi ấy con mới biết sông Hằng.

Phật bảo: Đại vương! Như ông đã nói, khi hai mươi tuổi già hơn mười tuổi, cho đến sáu mươi tuổi, năm tháng ngày giờ niệm niệm đổi dời, ắt khi ông ba tuổi thấy sông Hằng đến năm mười ba tuổi thấy sông Hằng, vậy cái thấy ấy ra sao?

Vua thưa: Như lúc ba tuổi rõ ràng không đổi, cho đến hiện nay sáu mươi hai tuổi cái thấy ấy vẫn không có khác. Phật bảo: Nay ông tự lo tóc bạc mặt nhăn, quyết định mặt nhăn hơn lúc còn trẻ, song hiện nay ông thấy sông Hằng cùng với cái thấy sông Hằng thuở xưa có trẻ, có già chăng?

Vua thưa: Kính bạch Thế Tôn! Dạ không ạ. Phật bảo: Đại vương! Mặt ông tuy nhăn, song tánh thấy của ông chưa từng nhăn; nhăn thì biến đổi, chẳng nhăn thì không biến đổibiến đổi thì bị sanh diệt, cái không biến đổi vốn không sanh diệt, tại sao ở trong ấy chịu sanh tử với ông, mà ông dẫn lời Mạc-dà-lê... đều nói thân này sau khi chết là diệt hết?

Rồi cũng trong kinh Lăng Nghiêm Phật ở trong đại chúng đưa tay lên nắm lại xoè ra, nắm lại xoè ra, hỏi A-nan: "Nay ông thấy cái gì?" A-nan thưa: "Con thấy bàn tay trăm báu của Như Lai ở trong chúng xòe nắm". Phật bảo A-nan: "Ông thấy tay ta ở trong chúng xòe nắm, hay cái thấy của ông có xòe nắm"? A-nan thưa: "Tay trăm báu của Thế Tôn ở trong chúng xòe nắm, con thấy tay Như Lai tự xòe nắm, chẳng phải tánh thấy của con có xòe nắm". Phật hỏi: "Cái nào động, cái nào tịnh”? A-nan thưa: "Tay Phật động, tánh thấy của con còn không có tịnh, huống là động". Phật khen: "Đúng thế".

Khi đọc đoạn kinh trên, chúng ta thấy Phật chỉ rõ ràng ngay nơi thân này cái nào sanh diệt, cái nào chẳng sanh diệt. Thân là dòng biến động thay đổi từng phút giây, từ khi mở mắt chào đời cho đến khi khôn lớn trưởng thành rồi già, bệnh, chết tức là thân này không thật có cho nên vô thường hoại diệtTánh thấy nương nơi mắt xưa nay chưa từng thay đổi, thì làm gì có vô thường hoại diệt, bởi vì khi thấy mọi hình ảnh sự vật như thế nào, thì biết rõ như thế ấy mà vẫn thường biết rõ ràng.

Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông rồi hỏi ngài có nghe không, ngài A Nan trả lời có. Đợi khi tiếng chuông im bặt một hồi lâu, Phật hỏi lại: “Ông có nghe không?”. Ngài A Nan trả lời: “Không nghe!”, liền bị Phật quở: “Tại sao ông quên mình theo vật?” Phật nói tiếp: “khi có tiếng, nghe có tiếng, khi không tiếng, nghe không tiếng”. Tính nghe luôn thường hằng nên có tiếng biết có tiếng, không tiếng biết không tiếng, vậy mà chúng ta không chịu thừa nhận nên luôn sống trong đau khổ lầm mê bởi vì chạy theo âm thanh lớn nhỏ, vừa ý hay không vừa ý.

Trong cái thấy biết mọi hình ảnh sự vật, chúng ta chạy theo phân biệt là gốc vô minh; trong cái thấy biết, thấy chỉ là thấy không phân biệt là Niết-bàn. Đó là con đường trở về thể tánh chân thật hằng tri, hằng giác. Đó là sự chỉ dạy trong kinh Lăng Nghiêm và các thiền sư đồng một điểm, không có chỗ nào sai khác.

-Đối chiếu thiền sưThiền sư Sùng Tín là con nhà bán bánh bao gần chùa, mỗi ngày đem bánh đến cúng dường Thiền sư Đạo Ngộ. Mỗi lần nhận bánh, thiền sư Đạo Ngộ để lại một cái cho sư và nói: "Ta cho ngươi lại một cái, để dành ân huệ cho con cháu về sau." và cứ như thế một thời gian dài. Thầy rất ngạc nhiên nên mới hỏi thì được thiền sư trả lời: "Bánh của ngươi đem đến, ta cho lại ngươi một cái, có lỗi lầm gì"?

Sùng Tín từ đó mới thắc mắc mà không tìm ra đáp số, một hôm ông đến tìm gặp thiền sư hỏi cho biết rõ sự thậtThiền sư nói: Nếu nhà ngươi muốn biết thì hãy phát tâm xuất gia học đạo đi, ta sẽ vì ông nói. Sùng Tín nghe nói vậy thu xếp việc gia đình xong xuôi, sau đó xuất gia học đạoTuy nhiên khi vào Thiền viện đã hơn 3 năm mà sư phụ chẳng chỉ dạy điều gì, làm cho ngài càng thêm thắc mắc hơn, nên tâm mới thành một khối?

Một hôm sư thưa: "Từ ngày con đến đây chưa từng được thầy chỉ dạy tâm yếu". Đạo Ngộ đáp: "Từ ngày ngươi đến đây, ta chưa từng chẳng dạy ngươi". Sư hỏi lại: "Chỉ dạy ở chỗ nào"? Đạo Ngộ bảo: "Ngươi dâng trà, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận. Ngươi xá lui, ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu"? Sư cuối đầu lặng thinh giây lâu. Đạo Ngộ bảo: Thấy thì thẳng đó liền thấy suy nghĩ liền sai. Nghe câu nói này sư có chút tỏ ngộ, rồi lại hỏi thêm: "Con làm sao gìn giữ"? Đạo Ngộ bảo: "Mặc tính tiêu daotuỳ duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm, chẳng có thánh giải khác". Ngay nơi câu nói này thầy triệt ngộ. Sau thầy đến trụ tại Long Đàm, dạy đồ chúng tu học.

Nói tánh thấy tức là chỉ cái thấy biết thường xuyên ngay nơi mắt chúng ta, khi chưa khởi niệm phân biệtđể so sánh đẹp xấu, hơn thua. Thiền sư Sùng Tín lúc còn cư sĩ mỗi ngày phát tâm cúng dường mười cái bánh bao, khi nhận xong thiền sư cho lại Sùng Tín một cái, làm cho ông cư sĩ này phải thắc mắc và ấp ủ trong lòng vì sao có chuyện kỳ lạ như thế! Ngài tự nghĩ thầm, chắc có ý chỉ cao siêu gì đây? Sau nhiều lần gặp thiền sư mong được giải đáp thắc mắc trên, nhưng thiền sư không trả lời mà chỉ nói: “Bánh ngươi cúng, ta cho lại một cái có lỗi lầm gì”?

Hằng ngày ông ta làm bánh bao vừa bán, vừa cúng dườngchúng ta lưu ý, cái gì thấy mà biết là bánh bao. Chính chỗ này, thiền sư muốn chỉ tánh thấy nương nơi mắt để ông nhận ra ông chủ của mình là chơn tâm Phật tính mà sau này chỉ dạy lại cho con cháu về sau. Khi Sùng Tín nhận lại một cái bánh bao, cái gì thấy, cái gì biết, thấy biết cái bánh bao mà chưa khởi niệm phân biệt, vậy ngay khi ấy là gì? Thiền sư quá từ bi cho nên dồn đệ tử vào đường cùng, bắt buộc đệ tử phải chú tâm cao độ vào đó mà không còn nhớ những chuyện gì khác, nhờ vậy lâu ngày trở thành một khối.

Và một giải pháp cuối cùng muốn biết được điều đó thì anh cư sĩ này phải xuất gia. Nhưng khi được xuất gia rồi ông thầy bắt làm thị giả mà chẳng có lời nào chỉ dạy. Mỗi khi hỏi đến thì thiền sư gạt ngang chẳng thèm trả lời. Đây là chiêu thuật của các thiền sư muốn làm cho đệ tử chỉ thắc mắc một vấn đề đó thôi, nhờ vậy bao nhiêu tạp niệm khác, lần hồi rơi rụng theo thời gian vì sự chuyên nhất vào một chỗ.

Đợi cho đến lúc vị đệ tử của mình quá khát khao, thiền sư chỉ nói: Ta lúc nào cũng chỉ dạy tâm yếu? Ông cúng dường bánh cho ta! Ta cho lại ông một cái đó, ông mắt thấy tai nghe rõ ràng như vậy chỗ nào không phải là tâm yếu? Đến chỗ này thì trời đất mênh mông vô cùng tận cũng không ngoài cái thấy biết thanh tịnh như như.

Cho đến khi chúng ta mở hay nhắm mắt, nó cũng luôn luôn hiển lộ. Nó không lệ thuộc hoàn toàn vào mắt, cơ quan mắt tốt thì nó hiện sáng tỏcơ quan mắt xấu thì nó hiện lu mờcho đến cơ quan mắt hoại nó cũng không bị hoại theo. Người bị mù thì nhắm mắt thấy tối, đồng như người sáng mắt vào trong nhà tối đều vẫn thấy như nhau.

Đó là đặc tính thường biết rõ ràng nói không thể đến của tánh thấy nương nơi mắt, thiền sư Sùng tín nhận được tâm yếu từ tánh thấy, nên sau này giáo hóa mọi người cũng bằng phương pháp này. Cũng trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: "sáu căn là gốc luân hồi, sáu căn cũng là gốc Niết-bàn". Người muốn trở về chân tánh thường biết rõ ràng, không có cách nào khác hơn là phải nương vào mắt tai mũi lưỡi thân ý. Sáu căn là gốc luân hồi sinh tử, sáu căn cũng là gốc giải thoátnguyên nhân vì sao lại có sai biệtnhư thế? Trong cái thấy biết mọi hình ảnh sự vật, chúng ta chạy theo phân biệt là gốc vô minh; trong cái thấy biết, thấy chỉ là thấy không phân biệt là Niết-bàn. Đó là con đường trở về thể tánh chân thật hằng tri, hằng giác. Đó là sự chỉ dạy trong kinh Lăng Nghiêm và các thiền sư đồng một điểm, không có chỗ nào sai khác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2068)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2219)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1725)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2036)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1744)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1732)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1901)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1912)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1566)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1736)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2077)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1824)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2390)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1718)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1721)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1681)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2127)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1951)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2093)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1632)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2251)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1597)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1875)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1769)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1828)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1673)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2412)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2124)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2071)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1877)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2229)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1800)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1921)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2158)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1685)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1948)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1944)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2157)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1929)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1769)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1752)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1762)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1873)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2163)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1716)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1684)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2252)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1783)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2356)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant