Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí, Bi Và Lạc Trong Kinh Lăng Già

11 Tháng Tư 201806:54(Xem: 6320)
Trí, Bi Và Lạc Trong Kinh Lăng Già

Trí, Bi Và Lạc Trong Kinh Lăng Già 

Nguyễn Thế Đăng


Trí, Bi Và Lạc Trong Kinh Lăng Già


Bài kệ đầu tiên của kinh Lăng-già là của Bồ- tát Đại Huệ tán thán Đức Phật. Bốn câu đầu trong tất cả tám câu nói về đại bi:

Thế gian lìa sanh diệt 
Giống như hoa trong không 
Trí chẳng đắc có không 
Mà hưng tâm đại bi

Tất cả pháp như huyễn 
Xa lìa khỏi tâm thức 
Trí chẳng đắc có không 
Mà hưng tâm đại bi

Thế gian hằng như mộng 
Xa lìa khỏi đoạn thường 
Trí chẳng đắc có không 
Mà hưng tâm đại bi

Biết nhân pháp vô ngã 
Phiền não và sở tri 
Thường thanh tịnh vô tướng 
Mà hưng tâm đại bi.

Trong bốn câu kệ này, trí huệ luôn luôn gắn liền với đại biTrí huệ là cái thấy tánh Không, được khai thị trong ba cầu đầu của mỗi câu kệ. Chẳng hạn như câu đầu tiên, trí huệ là “Thế gian lìa sanh diệt, giống như hoa trong không, trí chẳng đắc có không”, đi liền với đại bi là “Mà hưng tâm đại bi”.

Trong những kinh Đại thừa, khi nói về Đức Phật, bao giờ cũng có đại từ đại bi: “Bốn vô sở uýbốn vô ngạigiải, mười lựcmười tám pháp bất cọngđại từ đại bi”. Thế nên sự tu hành của Bồ-tát bao giờ cũng gắn liền với trí huệ và đại bi, điều này chúng ta thấy rõ trong Bồ-đề tâm.

Trong quan niệm của đời thường, trí huệ thuộc về lý trí, chỉ số thông minh (IQ); còn đại bi thuộc về tình cảm, chỉ số cảm xúc (EQ), hai cái có vẻ chẳng có thể dung hoà với nhau. Nhưng với Phật giáo, ở một tâm thức cao cấp, hai cái này trở thành một và hoàn thành được sự hợp nhất của bán cầu não phải và bán cầu não trái.

Tại sao lòng bi cần có trí huệ? Lòng bi bình thường chỉ là một tình cảm mang tính cảm tính của cá nhân,phát khởi cho một đối tượng nhất định và hạn hẹp, do đó tình cảm ấy nhỏ hẹp và thường thiên lệch. Lòng bi của Bồ-tát phải khách quan, nghĩa là phải cần trí huệ để không bị giới hạn trong chủ thể và đối tượng (“Biết nhân pháp vô ngã”), không bị ngăn che bởi phiền não chướng và sở tri chướng (“Phiền não và sở tri”). Chính vì không bị giới hạn trong tâm thức bình thường bị phân mảnh bởi các tướng mà lòng bi trở thành đại biTrí huệ tánh Không phá vỡ sự ngưng đọng vào các tướng che chướng ngăn ngại trong tâm khiến cho tâm mỗi lúc một rộng lớn để trở thành “vô ngại đại bi tâm”. Như thế, như huyễn và đại bi là một.

Như kinh Kim Cương nói: “Độ tất cả chúng sanh mà thật không có chúng sanh nào được độ”.

Ngược lại, đại bi ôm trùm chúng sanh thế giới khiến tâm rộng lớn bao la, hỗ trợ cho trí huệ xoá nhoà mọichướng ngại phân cách. Tâm trí huệ và đại bi là một tâm sáng tỏ (trí huệ) và bao trùm tất cả (đại bi). Tâm ấy là tánh Không hợp nhất với đại bi, đồng với pháp giới tánh, đó là lý do có thành ngữ “đồng thể đại bi”.

Bồ-tát ngay từ đầu đã tu tâm bi, trong Bồ-đề tâm thì “nguyện giác ngộ” là trí huệ; và “để độ tất cả chúng sanh” là đại bi. Chính nhờ đại bi mà Bồ-tát vượt khỏi sự giải thoát của bậc Thanh văn:

Thanh văn thừa rõ biết cảnh giới các chân lý Khổ, Không, Vô thườngVô ngã, lìa dục, tịch diệt, tâm trụ một cảnh. Đã trụ một cảnh thì được đạo quả thiền định, tammuội giải thoát mà được xuất ly, trụ cảnh giới lạccủa tự chứng thánh trí, nhưng chưa hết được tập khí và biến dịch sanh tử không thể nghĩ bàn. Đó là tướngcảnh giới tự chứng thánh trí của Thanh văn thừa. Đại Bồ-tát tuy cũng đắc cảnh giới thánh trí này, nhưng vìthương xót chúng sanh và vì giữ gìn bổn nguyện nên chẳng chứng môn tịch diệt và tam-muội lạc. Các Đại Bồ- tát chẳng nên tu học để vào cái lạc của tự chứng thánh trí ấy”.

Đại bi là “bổn nguyện độ chúng sanh nên không nhập Niết-bàn”:

“Sao là từ vô thuỷ khởi nguyện độ chúng sanh? Các Bồ-tát vì phương tiện bổn nguyện, nguyện cho tất cảchúng sanh đều vào Niết-bàn; nếu còn một chúng sanh nào chưa Niết-bàn thì tôi rốt cuộc chẳng nhập…

Những Bồ-tát nhất-xiển-đề biết tất cả xưa nay Niếtbàn, rốt cuộc chẳng nhập, chứ chẳng phải xả bỏ thiện căn (nguyện độ chúng sanh)… Phật không có lúc nào bỏ tất cả chúng sanh, thế nên Bồ-tát nhất-xiển-đề không nhập Niết-bàn”.

Trí huệ ngộ nhập như huyễn luôn luôn đi với đại bi. Một người khi thấy những người chung quanh suốt đờinhọc nhằn tìm hái “hoa giữa hư không”, “mò trăng đáy nước”, trông chờ “người gái bằng đá sanh con” nên “trôi lăn không ngừng trong các nẻo như bánh xe do nước quay”, khổ đau và làm người khác khổ đau “vì trò huyễn thuật của huyễn sư tạo ra” khiến “người gỗ hoạt động”, “theo ái sanh các uẩn, như điều thấy trong mộng”… thì không thể nào không khởi lên thương xót cho sự điên đảo khổ đau ấy mà tìm cách cứu những người kia ra khỏi cơn mê mộng vọng tưởng.

Trí huệ ngộ nhập như huyễn không chỉ là để tự cứu mình, tự bảo vệ mình trong cơn lốc của sanh tử, mà còn là sức mạnh để cứu người. Đó là sức mạnh của “định như huyễn”, cũng tức là năng lực của “ý sanh thân”. Với định như huyễntrí huệ và đại bi là một.

Cũng cái trí huệ chứng ngộ như huyễn này sanh ra hoan hỷ, an vui:

“Khiến họ biết những cái được thấy đều là tự tâm, đoạn dứt tất cả kiến chấp ta và cái của ta, lìa các ác nhân duyên năng tác sở tác, rõ biết duy tâm, chuyển ý thành lạc, khéo rõ các địa, vào cảnh giới Phật, xả bỏ các kiến phân biệt về năm pháp, ba tự tánh”.

Ở phần mở đầu kinh Lăng-già, Đức Phật đã cười hai lần vì thấy tất cả đều duy tâm như huyễn:

“Bấy giờ Như Lai đưa mắt nhìn khắp thành lớn Lăng già trên núi Ma-la-đà, bèn mỉm cười mà nói rằng, ‘Các bậc Chánh đẳng giác ngày xưa đều ở trong thành này nói pháp thánh trí tự chứng… Nay ta cũng sẽ khai thị pháp này cho vua La-bà-na’… Như Lai nhìn các làn sóng biển, thấy cảnh giới tạng thức chúng hội nhưđại dương có gió chuyển động làm sóng thức khởi”.

Lần thứ hai, Đức Phật cười lớn:

“Bấy giờ Thế Tôn từ xa quán khắp chúng hội bằng huệ nhãn rồi bỗng hân hoan mạnh mẽ cười lớn như vua sư tử… Lúc ấy trong hư không Phạm Thiên, Đế-thích, Bốn Thiên vương từ xa thấy Như Lai ngồi như núi Tu-di trên đỉnh Lăng-già hân hoan cười lớn”.

Đó là “chứng trí thường an lạc”, là “Như Lai tammuội lạc” của Đức Phật, bậc chứng hoàn toàn trí như huyễn. Người tu hành trí như huyễn này cũng đồng thời chứng ngộ lạc:

“Phật dạy: Hãy nghe kỹ, ta sẽ nói cho ông, Đại Huệ! Năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã là danh, tướng, phân biệtchánh trínhư như.

Nếu người tu hành quán sát pháp này thì nhập vào cảnh giới tự chứng của Như Laixa lìa các kiến thường đoạn, hữu vô… đắc tam-muội hiện pháp lạc rất sâu. Đại Huệ! Người phàm phu không biết năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, nơi tâm hiện thấy có ngoại vật mà khởi phân biệtThánh nhân thì không như thế”.

Ở trong như huyễn tam-muội cũng là ở trong hiện chứng tam-muội lạc:

Phật dạy: Đại Huệ! Tất cả pháp là thiện phápbất thiện pháp, hữu vi phápvô vi phápthế gian phápxuất thế gian pháphữu lậu phápvô lậu pháp, hữu thọ phápvô thọ pháp. Đại Huệ! Nói tóm thì năm thủ uẩn là do tập khí của tâm, ý, ý thức làm nhân mà được tăng trưởngPhàm ngu nơi đó mà sanh phân biệt, cho rằng thiện, bất thiệnThánh nhân thì trụ hiện chứng tam-muội lạc, đó gọi là pháp thiện vô lậu”.

Tóm lại trí huệ như huyễn và đại bi và lạc là một.

Nguyễn Thế Đăng |Văn Hóa Phật Giáo 15-3-2018 |

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15390)
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào.
(Xem: 13840)
Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, tôi không thể nói rằng tôi không có trách nhiệm gì đối với những khổ đau, bất ưng, nghịch lý, bất công, hiểm nguy đang xảy ra chung quanh tôi.
(Xem: 13708)
Nỗi thất vọng lớn nhất của con người là chạy bươn về phía trước hay chạy ngược về phía sau để kiếm tìm cho mình một bản ngã. Bản ngã trong cơm áo, gạo tiền, trong kiến thức chữ nghĩa...
(Xem: 13211)
Ta làm và nói sai, nhưng ta lại được nhiều người khen ngợi mỗi ngày, như vậy mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày đưa đời sống của ta đi dần vào bóng đêm và từ bóng đêm này dẫn ta đi tới bóng đêm khác.
(Xem: 14077)
Có một phạm nhân trong thời gian cải tạo khi đang tu sửa lại đường đi, anh ta nhặt được 2 triệu đồng, anh ta không mảy may suy nghĩ liền mang số tiền này đến chỗ cảnh sát.
(Xem: 13737)
Con bé không chú ý đến câu hỏi của tôi, đang bận bịu thổi kẹo thành quả bong bóng nhỏ. Có lúc nó thổi không khéo, quả bóng vỡ gây một tiếng bụp nhẹ, để lại chất kẹo nằm vắt ngang đôi môi mọng đỏ.
(Xem: 13835)
Mùa đông năm ấy tuyết không rơi nhiều, nhưng cái lạnh vẫn theo sương khói ùa về làm xác xơ thêm cho khu rừng mới trải qua một mùa dông bão kéo dài trước đó.
(Xem: 14754)
Thuở xưa, có anh chàng đọc kinh nghe nói về Phật, thích lắm, quyết định đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp ra đi. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, hầm hố gian nguy hiểm trở...
(Xem: 12811)
Khi nắng vội vã đổ về trên từng con đường, nhà cửa, phố phường, cây cối, sông ngòi và nắng cũng chan hoà, hong đầy tâm của người con Phật, bằng chất liệu tươi trẻ ấm áp.
(Xem: 13777)
Bà Chín hồi nào đến giờ vẫn vậy, vẫn quạnh quẽ sống mình ên trong cái chòi lá bên một ao sen trắng. Cả làng chỉ biết bà là người xứ khác trôi giạt đến, cách nay đã ba mươi năm.
(Xem: 14774)
Sau khi nói chuyện với cô bé tôi ra về. Wendy nói cô bé rất vui, và đúng là tôi thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.
(Xem: 15039)
Từ ngàn xưa, Ấn Ðộ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử...
(Xem: 15101)
Chú Tư nhai với trâu, nhai một hồi thấy đúng là mình đang nhai cỏ; chú vừa nhai cỏ vừa ngước mắt nhìn trời xa xăm...
(Xem: 18001)
Có đôi lúc giữa đêm tôi tự hỏi mình có già cỗi quá không? Và mình đã thu lượm được những gì trên con đường mình đã chọn?
(Xem: 16090)
Khi ra đời, một cây bút chì luôn thắc mắc không biết cuộc sống bên ngoài xưởng làm bút chì sẽ ra sao bởi thỉnh thoảng nó nghe những người thợ làm bút chì nói chuyện với nhau.
(Xem: 15892)
Thủy tiên nhỏ bé, xinh xắn với hương thơm cao sang, cánh hoa trắng muốt, mọc từng chùm trên củ như loại hành tây. Những chiếc lá mịn màng đang vươn mình ra ánh sáng.
(Xem: 17522)
Cứ ngỡ hoa được thả từ đâu đó trên không trung xuống rồi đậu lên hàng rào. Hoa không thành chùm lớn, cách nhau vừa tầm xa, như họa sĩ thiên nhiên...
(Xem: 16644)
Mỗi năm, vào ngày trăng tròn tháng tư, chúng ta cung kính, hân hoan đón nhận Đấng Giác Ngộ ra đời. Đó là Đức Phật lịch sử, Đức Phật đã mang hình người để đến với chúng ta.
(Xem: 15956)
Trong các chùa thuộc Bắc tông, thường treo bức tranh một hành giả dữ tướng, cao to, quắc thước, râu hùm, hàm én, mắt lóe kỳ quang, mình vận cà sa, vai quảy một chiếc dép...
(Xem: 13500)
Cơn nắng giao mùa đã bắt đầu rực sáng; những tàng lá non xanh đã trở nên đậm sắc hơn; những cây phượng hồng vẫn còn nở rực; đằng xa trong vườn nhà ai...
(Xem: 14279)
Một chàng trai bị lạc giữa sa mạc rộng lớn. Anh mệt lả và khát khô cổ, sẵn sàng đánh đổi bất cứ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát.
(Xem: 12546)
Thuyết pháp độ sinh suốt 49 năm, bỗng một ngày nhìn lại, thấy mình chưa nói một lời. Bất thuyết thị Phật thuyết! Chung thân ngôn, vị thường ngôn!
(Xem: 13061)
Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình anhạnh phúc...
(Xem: 16711)
Một người thanh niên đang ngồi trên một tảng đá gần nhà vào một ngày nọ. Một nhóm những người thông tuệ từ ngôi làng của anh ta đi ngang qua...
(Xem: 28918)
Một con cá nhỏ bơi lội tung tăng, thả nổi và ngoi lên mặt nước ngắm bầu trời xanh. Một lượn sóng ùa tới, nó đùa giỡn ngụp lặn với sóng...
(Xem: 19467)
Có một vị nam cư sĩ mỗi ngày thường hái hoa tươi trong vườn nhà mình đem đến chùa chí thành dâng cúng Phật. Một hôm, khi đem hoa đến điện Phật...
(Xem: 15069)
Con tin có Phật trên đời Phật luôn hiện hữu không rời chúng sanh Nhìn vào sự việc chung quanh Thật là kỳ diệu phải nhanh tu hành
(Xem: 11472)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati)...
(Xem: 13733)
Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa.
(Xem: 13871)
Có một người trung niên sau khi xuất gia trở thành một vị cao tăng, trụ trì một tu viện cách rất xa gia đình. Rất nhiều người ngưỡng mộ danh đức của ngài...
(Xem: 12975)
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi, thuộc vương quốc Kosala.
(Xem: 19939)
Hạnh phúc chân chính liên quan đến tình cảm và trí huệ nhiều hơn. Hạnh phúc lệ thuộc vào lạc thú vật chất không vững bền, nay có mai không.
(Xem: 14973)
Ba chú tiểu dáo dác nhìn bốn bề xao động trong cặp mắt nai ngơ ngác. Dọc theo lề đường, ánh đèn xanh đỏ lập lòe về đêm...
(Xem: 13382)
Bóng con bé chạy dài theo bóng nắng. Thoắt cái nó đã mất hút sau đám ô môi rậm rạp. Vị thầy chỉ đi theo một đoạn. Nhìn những dấu chân nhỏ nhắn...
(Xem: 13954)
Rõ ràng, ở đời không có cái gì là toàn thiện, hoàn mỹ tuyệt đối cả. Được cái này thì mất cái kia là đặc tính chung nhất của vạn sự vạn vật.
(Xem: 12044)
Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được.
(Xem: 14533)
Khi gặp mình mua 1000 đồng, trong bụng bà ấy được vui một chút, đó cũng là cách mình làm phước. Mình đem vui lại cho người khác, mình cũng sẽ được vui lây...
(Xem: 27058)
Ngày nay, tình yêu đã được hằng kho, hằng kho sách vở, báo chí, phim ảnh ca tụng như là một thứ “linh thiêng, thần thánh”, một nguồn hạnh phúc, hoan lạc đẹp nhất của kiếp người.
(Xem: 14198)
Nắng mùa hè ấm áp, giúp cho vườn hoa ở Canada cảnh sắc rực rỡ. Một hồ sen điểm vài cánh hoa hiếm quí tươi nhuần thanh khiết, làm ấm lòng người thưởng ngoạn.
(Xem: 18782)
Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệchấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống.
(Xem: 13856)
Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi Đức Phật và nụ cười tạm biệt của các thiền sư...
(Xem: 15771)
Bạn sẽ làm gì khi cuộc sống trao cho bạn những phiền toái không thể ngờ? Khi những dự tính không theo ý muốn? Bạn có chấp nhận nó...
(Xem: 16477)
Có phải là chúng ta cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi ngày nay dù trên đất Mỹ, con cái chúng ta sống gần gũi trong một tiểu bang...
(Xem: 13822)
Ngày nay những gì chúng ta cần là sự chuyển hóa một cách căn bản trong nhận thức của chúng ta về con người là gì. Chúng ta phải từ bỏ ách nặng...
(Xem: 13565)
Trời đã về khuya. Trăng lên cao sáng vằng vặc trên bầu trời đen thẳm. Triều lẳng lặng bước vào bên trong phòng vẽ chưa đóng cửa...
(Xem: 18368)
Hắn cúp máy rồi, tôi cứ nằm yên đó ngó lên bức tranh mực Tàu trên vách. Ở đó có con thuyền hờ hững trên sông, chẳng biết sắp vào bờ...
(Xem: 12925)
Tịnh thất nằm bên triền núi, quanh năm vắng lặng, ít người lui tới. Cái quang cảnh vắng vẻ heo hút tạo cảm giác rờn rợn khi tôi đặt chân đến.
(Xem: 12577)
Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó được nghỉ làm...
(Xem: 12216)
Đã có người hỏi tôi câu hỏi này mà tôi không trả lời được: "Nói dân tộc Việt Nam có bốn nghìn năm văn hiến. Nhưng có thấy cái gì đâu!"
(Xem: 13423)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant