Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Đoạn Đường Đã Qua

27 Tháng Tư 201813:31(Xem: 5567)
Những Đoạn Đường Đã Qua

NHỮNG ĐOẠN ĐƯỜNG ĐÃ QUA

Thích Như Điển

Mỗi người trong chúng ta khi sinh ra trên cõi đời nầy đều phải trải qua nhiều giai đoạn của cuộc sống. Nếu nói theo tướng mệnh học thì người ta chia cuộc đời nầy ra làm 3 giai đoạn. Đó là tiền vận, trung vận và hậu vận. Tiền vận có giới hạn từ khi mới sanh ra cho đến tuổi trưởng thành và bắt đầu đi vào con đường của sự nghiệp. Trung vận có nghĩa là từ khi lập nghiệp đến tuổi trước khi về già và hậu vận là bắt đầu có thể từ tuổi 50 trở về sau. Căn cứ theo đó mà người ta đoán vận mệnh của mỗi người. Có người tiền vận tốt, nhưng trung vận lại không. Ngược lại có người trung vận tốt mà tiền vận lại không. Hay có kẻ hậu vận tốt mà cả tiền vận và trung vận đều xấu…

Tôi không là thầy tướng số, nhưng cuộc đời của mỗi con người, tôi quan sát và khi qua tuổi 70 của mình, đã thấy rõ được điều đó. Nếu nói theo Phật học thì nhân quá khứ là quả của hiện tại và nhân của hiện tại sẽ là quả của tương lai. Nếu hiện tại tốt thì tương lai sẽ tốt v.v… Đạo giáo sẽ nói khác hơn là: Đạo mà nói ra được thì chẳng gọi là Đạo. Tên mà còn gọi tên thì tên ấy chẳng phải là tên. Như thế và như thế, cuộc đời nầy có muôn trùng biến hiện, tùy theo cái nhìn và sự cảm nhận của mỗi người mà thôi. Kể từ năm 1964 đến 1974, rồi 1984, 1994, 2004, 2014… hơn 50 năm như vậy tôi đã kinh qua những giai đoạn ở trong nước, rồi ở nước ngoài với tư cách là một người xuất gia, tôi đã gặp những vị Thầy dạy đời cũng như dạy Đạo và tôi cũng đã quen biết cả hằng ngàn, hằng vạn người trên thế giới nầy. Âu đó cũng là nhân duyên và Cố Hòa Thượng Thích Như Huệ, Phương Trượng chùa Pháp Hoa ở Adelaide, đã là một trong những vị Thầy dạy Đạo quan trọng trong đời tôi, từ những năm 1964 đến khi tôi rời Hội An vào Sài Gòn năm 1968. Mới đó mà cũng đã 50 năm rồi.

Trong 50 năm ấy tôi chỉ gần Thầy trong một thời gian ngắn ngủi ba bốn năm, nhưng đã học được từ Thầy cách tán tụng mỗi khi thời Kinh khuya hay thời Kinh chiều đến. Học giáo lý với Thầy tại trường Trung Học Bồ Đề Hội An những năm 1966 đến 1968. Theo Thầy đi làm thị giả nhiều nơi tại Hội An khi có những buổi giảng pháp tại chùa Tỉnh Hội hay qua Cẩm Nam v.v… tất cả là những kỷ niệm tuyệt vời của tuổi thơ ngày ấy. Tôi đã chưa và sẽ không bao giờ quên cả. Ngày ấy, tôi thấy Thầy vĩ đại quá, trong khi Giáo Hội bị gặp nhiều nhiễu nhương, nhưng Thầy vẫn ung dung tự tại, nhất là thời điểm năm 1966, khi phong trào đem Phật ra đường và phong trào Thanh Niên Quyết Tử đã bị chính quyền thời Đệ nhị Cộng hòa cho vào tù và hỏi cung, giam vào ngục những người tranh đấu, thì Thầy vẫn ung dung với bộ đồ Đại Úy Tuyên Úy Phật Giáo. Vào mùa Hè năm 1966, khi tôi lom khom quét chùa Viên Giác tại Hội An thì thấy một thanh niên mặc đồ trắng, trên hai cầu vai mang cấp bậc Đại Úy của quân lực Việt Nam Cộng Hòa bước vào chùa với dáng điệu ngang nhiên và khi ngước đầu lên, thấy người nầy sao mà quen quen, sau khi Thầy dỡ mũ ra mới biết là Thầy Như Huệ. Tôi xá Thầy và thỉnh Thầy vào nhà khách. Vì Thầy tôi thuở ấy còn ở tù chưa về, nên chùa nào ở Hội An cũng vắng vẻ, ít người thăm viếng, cúng bái.

Rồi những năm 1968 trở đi tôi xa Hội An, xa Thầy và xa trường Trung Học Bồ Đề cũng như Trường Trần Quý Cáp để vào Sài Gòn học tiếp Trung Học đệ nhị cấp, thì Thầy vẫn còn làm Giám Học trường Trung Học Bồ Đề Hội An. Rồi ngày 22 tháng 2 năm 1972 tôi thật sự đã xa đất Mẹ Việt Nam sang Nhật Bản để du học. Những ngày còn ở Sài Gòn, khi nào Thầy vào Nam cũng đều có ghé thăm chùa Hưng Long, lúc ấy tôi lại có cơ hội gặp Thầy và trông Thầy vẫn là người hạnh phúc, an lạc hơn cả Sư Phụ Thích Long Trí của tôi nữa. Vì Thầy tôi năm 1963, rồi năm 1966 lúc nào cũng bị vào tù ra khám, rồi bịnh tật liên miên, nhưng Thầy Như Huệ thì không. Bẵng đi nhiều năm, nhất là sau năm 1975, tôi đang học ở Nhật Bản, không còn một liên lạc nào trực tiếp với quê hương nữa và tôi cũng đã chẳng biết Thầy đang ở đâu cả. Mãi cho đến một ngày của năm 1983 có điện thoại reo tại chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc, tôi bắt máy, tiếng nói từ đầu dây bên kia: “Tôi gọi điện thoại cho Thầy từ Nhật Bản, Thầy có nhận ra tôi không?”

Bạch Thầy! Con nghe tiếng quen quen.

Tôi là Thầy Như Huệ đây!

Bạch Thầy đang ở đâu vậy?

Tôi đang ở Nhật Bản, vừa được tàu Na Uy vớt. Thầy làm sao đưa tôi qua Đức được không?

Bạch Thầy! Con rất vui khi nghe Thầy đến được bến bờ tự do, nhưng có hai điều Thầy không nên đến Đức.

Ở đầu dây bên kia dường như có tiếng thở nhẹ, tỏ vẻ không đồng tình và hỏi lại tôi rằng: Tại sao?

Bạch Thầy! Ở Đức có hai việc khó. Thứ nhất là tiếng Đức khó lắm mà tuổi Thầy trên dưới 50 rồi thì học sẽ không vô nữa và thứ hai là ở Đức về mùa Đông lạnh lắm Thầy ơi! Có khi dưới -27 độ Celcius. Chắc Thầy chịu không nổi đâu.

Vậy thì làm sao bây giờ?

Con xin đề nghị với Thầy là nên đi Úc, vì nơi đó cần nhiều vị Thầy như Thầy. Trước đây gần 2 năm, con đã giới Thiệu Thầy Bảo Lạc sang Úc và hiện đang ở Sydney. Nếu Thầy thuận thì con sẽ liên lạc với Đạo Hữu Nguyễn Văn Tươi ở Adelaide, làm giấy tờ bảo lãnh Thầy sang Adelaide để lãnh đạo tinh thần Phật Tử tại đó.

Thế rồi Thầy đồng ý và tôi lo liên lạc qua Úc, hướng dẫn Đạo hữu Nguyễn Văn Tươi liên lạc với Đạo hữu Hoàng Khôi và Đạo hữu Lê Thẳng Tiến tại Sydney lo giấy bảo lãnh, có chừng 300 chữ ký thỉnh nguyện của các Phật tử địa phương Adelaide, giống như tại Sydney đã làm cho Thầy Bảo Lạc cách đó gần 2 năm về trước, thì chắc rằng tòa Đại Sứ Úc tại Tokyo sẽ chuẩn y. Đúng như vậy! Chỉ ba tháng sau là thủ tục hoàn thành và Thầy đã đến Nam Úc vào thời điểm giữa năm 1983, nếu tôi nhớ không lầm là vậy.

Từ đó về sau nầy, hầu như mỗi năm tôi đều có dịp thăm Thầy và lúc nào cũng như lúc nào, Thầy đã dành cho tôi những tình cảm Thầy trò như lúc còn ở tại quê hương Hội An của những năm 1964 đến 1968. Bỗng một hôm, cách đây hai năm Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng từ Adelaide khi ghé thăm Hòa Thượng đang lâm trọng bịnh, cho tôi biết rằng: Hòa Thượng Thích Như Huệ đang cơn hấp hối. Thế là tôi chuẩn bị thêm một chuyến đi xa nữa và ngày ấy chính là ngày đến Adelaide để tiễn đưa Thầy lần cuối vào tháng 6 năm 2016. Tôi đã đi cùng chuyến máy bay với Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt, Thượng Tọa Quảng Đạo, Ni Sư Diệu Trạm tại Dubai, rồi đến  Adelaide. Mới đó mà đã 2 năm rồi. Lẽ ra lần này lễ Đại Tường của Hòa Thượng tôi phải có mặt, nhưng cuối năm 2018, Thầy Viên Trí, Trụ Trì Tổ Đình Pháp Hoa tại Adelaide đảm nhận việc tổ chức khóa tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ thứ 18, nên nhân cơ hội nầy tôi muốn đến Adelaide để tham dự cùng Thầy Viên Trí, sau đó còn về Pháp Bảo để thăm Hòa Thượng Bảo Lạc nữa, vả lại đi vào mùa Đông của nước Đức để trốn lạnh và gặp mùa Hè của xứ Úc chắc rằng sẽ dễ chịu hơn. Đi Úc từ Âu Châu cả đi và về có nghĩa là đi vòng quanh quả đất đến hơn 34.000 cây số. Từ 1978 đến nay 2018 hầu như không có năm nào là tôi  không đi Úc, nếu nhân với số lần đi, thì cũng đã hơn một triệu bốn trăm ngàn cây số đường bay rồi. Nhưng vì ở đó có tình Thầy trò, Huynh đệ, Pháp lữ, Đạo hữu nên sự kiện quan trọng nào của Giáo Hội tại Úc, tôi cũng không thể bỏ qua được. Nhưng lần này lễ Đại Tường nầy của Thầy, con xin được vắng mặt, và sẽ đến Adelaide vào tháng 12 của năm 2018 nầy. Con kính mong Thầy hoan hỷ cho con về việc này.

Thầy đánh trống tán rất hay, giọng tụng thì bi hùng thánh thót ít ai bì kịp, nên khi tưởng niệm về Thầy, con hay nghĩ rằng: Thầy là một vị Thầy mà cả tiền vận lẫn trung vận và hậu vận, vận nào cũng tốt cả, nên trong suốt hơn 80 năm nơi trần thế, trong khi Tứ Trụ Phật Giáo của Quảng Nam, người thì vào tù ra khám, kẻ thì bịnh hoạn lúc tuổi già. Vị thì sống chưa đến tuổi thọ 60 đã phải ra đi. Riêng Thầy, bao nhiêu sự thị phi nhơn nghĩa của trần thế đều lướt nhanh qua cuộc đời Thầy, không có bất cứ một cái gì có thể làm cho Thầy nao núng cả. Quả thật, đó là do phước duyên nhiều đời mà Thầy đã gieo trồng, nên kiếp nầy Thầy đã đến và đi với thế nhân và Đạo pháp một cách ung dung tự tại như vậy.

Lời cuối con xin nguyện cầu cho Thầy lúc nào cũng như lúc nào, vẫn mãi an vui nơi cõi Tịnh và hướng về Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Liên Châu, đặc biệt là Úc Châu, gia hộ cho chư huynh đệ Pháp lữ sớm hoàn thành sứ mạng của mình là ”Tác Như Lai Sứ, Hành Như Lai Sự” và sẽ có một ngày họ cũng phải ra đi như Thầy, nhưng sẽ làm xong nhiệm vụ của một Trưởng tử Như Lai là: “Chỗ nào cần con đến, chỗ nào gọi con đi, chẳng nệ gian lao và chẳng từ khó nhọc”

Thành kính đảnh lễ Giác Linh Thầy,

 

Viết xong vào ngày 25 tháng 4 năm 2018 nhằm ngày mồng mười tháng ba năm Mậu Tuất tại thư phòng Thiền Viện Chánh Pháp Oklahoma City, Trung Mỹ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2753)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2537)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2231)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2360)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2673)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3254)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2469)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2544)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2215)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2580)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3052)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2720)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2567)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2603)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4104)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2776)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3069)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3318)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3004)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2612)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2637)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3191)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2750)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3271)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2133)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2601)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2821)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2943)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2723)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant