Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Tóm Tắt

08 Tháng Năm 201807:03(Xem: 9389)
Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Tóm Tắt

Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Tóm Tắt 

Thích Trừng Sỹ


Lịch Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Tóm Tắt

Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama), một con người lịch sử, một thái tử thuộc dòng họ Thích Ca(Sakya), con trai của vua Tịnh Phạn (Suddhodana), sống tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) cách đây gần ba nghìn năm. Tất Đạt Đa sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak, tương ứng với tháng năm thường lịch, năm 624 trước công nguyên dưới gốc cây Vô Ưu (Ashoka tree) tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nước Nê-pan (Nepal) ngày nay. Siddhartha có nghĩa là con người toại nguyện có đầy đủ phước đức và trí tuệ

Sau khi thái tử sinh ra được 7 ngày, mẹ ngài, tứcthánh Mẫu Ma-da (Māyādevī) mất. Người mẹ kế của ngài là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di (Mahāpajāpatī Gotamī) chăm lo. Khi tới tuổi 16, thái tử lập gia đình với công chúa Da-du-đà-la (Yasodharā) và có một người con trai duy nhất tên là La Hầu La (Rāhula).

Sống trong cảnh nhung lụa, giàu sang và sung sướng, nhưng thái tử vẫn cảm thấy không tự do và thoái mái, cùng với người thân cận của mình tên là Sa Nặc (Channa), thực hiện một chuyến đi ra khỏi 4 cửathành hoàng cung để thăm các cảnh thật bên ngoài. Ra khỏi cửa thành, đi về hướng Đôngthái tử và Sa Nặc gặp người già; đi về hướng Tây, hai người gặp người bệnh; đi về hướng Nam, gặp người chết; và đi về hướng Bắc, gặp vị Khất sĩ. Một trong bốn cảnh thật mà thái tử chứng kiến, cảnh thật thứ tư không những là đề tài thiền quán cho thái tử, mà còn tạo nguồn cảm hứng cho thái tử sau này trở thành vịẩn sĩ không nhà, sống không gia đình và không bị ràng buộc bởi gia đình và con cái.

Xuất gia năm 29 tuổi, học đạo với hai vị đạo sĩ Ālāra Kalāma và Uddaka Rāmaputta, trải qua 6 năm tu khổ hạnh với 5 anh em của ông Kiều Trần Như (Kondañña), nhà tu Tất Đạt Đa xét thấy rằng việc tu khổ hạnhvà cực đoan của họ đã làm chướng ngại cho việc chứng đạo. Người quyết định chọn cho mình lối tukhông tham đắm dục lạc và không khổ hạnh ép xác, tức là hướng thực hành Trung Đạo(majjhimāpaipadā) với con đường Thánh có tám làn xe chạy: Chánh Kiến (Sammā Diṭṭhi)Chánh Tư Duy(Sammā Sakappa)Chánh Ngữ (Sammā Vācā)Chánh Nghiệp (Sammā Kammanta), Chánh Mạng(Sammā Ājīva), Chánh Tinh Tấn (Sammā Vāyāma)Chánh Niệm (Sammā Sati), và Chánh Định (Sammā Samādhi).[1]   

Sau khi dùng bát cháo sữa do nàng Su Dà Ta (Sujatacúng dường, nhận bó cỏ Kiết tường (Kusa) của người nông phu, đến Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), Bồ tát Tất Đạt Đa kiên quyết ngồi thiền định dưới cộiBồ đề 49 ngày đêm cho tới khi thành chánh quả. Ngài thực tập thiền định từ thấp tới cao, quán niệm hơi thở ra vào đều đặn (Anapana Sati), an trú Sơ Thiền (Jhāna), Nhị ThiềnTam ThiềnTứ ThiềnKhông Vô Biên Xứ Định (Akasanantya Yatana), Thức Vô Biên Xứ Định (Vijnanantya Yatana), Vô Sở Hữu Xứ Định(Akincanna Yatana), Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định (N'evasanna Nasanna Yatana), Diệt Thọ Tưởng Định (Nirodha Samapatti).[2]

Đêm thứ 49, canh đầuBồ Tát chứng Túc Mạng Minh (Pubbe nivāsānussati māna), biết rõ nhân quả nhiều đời trước của Ngài; canh giữa, Ngài chứng Thiên Nhãn Minh (Cutūpapāta māna), biết rõ nghiệp báo nhiều đời trước của chúng sanhcanh cuối, khi sao mai vừa mọc, Ngài chứng Lậu Tận Minh (Āsavakkhaya māna), giác ngộ viên mãn (Anuttara samma sambodhi) – phát hiện ra bốn sự thật: Khổ (Dukkha), Khổ tập(Dukkha samudaya ariya sacca), Khổ diệt (Dukkha nirodha ariya sacca), Con đường đưa đến khổ diệt(Dukkha nirodha gāmini  patipadā ariya sacca). Cuối cùngBồ tát thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni(Sakyamuni) tại Bồ Đề Đạo Tràng lúc 35 tuổi.

Sau khi Bồ Tát thành PhậtPhạm thiên Sahampati thưa thỉnh đức Phật ba lần để đi hoằng pháp và giáo hóachúng sanhCuối cùngđức Phật đồng ý những lời thỉnh mời của Phạm thiên, và tìm đến hai vị đạo sĩ trước đây để truyền đạo, nhưng cả hai vị đều qua đời. Đi đến vườn Lộc Uyển (Migadava) ở Sarnathđức Phật nói bài Pháp đầu tiên (Dhamma Cakka Pavattana) cho năm người bạn đồng tu. Cả năm người này đều thấm nhuần diệu pháp và chứng quả A La Hán (Arhanta). Như vậy, Phật, Pháp và Tăng được hình thành tại đây.

Đức Phật và Tăng chúng chủ yếu nương vào thiền định để nuôi dưỡng tâm, nương vào của bố thí của người đàn việt để nuôi dưỡng thân, thích an trú vào môi trường thiên nhiên, và đạt được sự tu chứngan lạc và hạnh phúc của tự thân để giáo hóa tha nhân. Sống đời sống không gia đình, quý Ngài có nhiều thời gian để tu tập và phục vụ chúng sanh, nương vào tình thầy trò, tình pháp lữ, tình đồng tu, tình hộ pháp vàhoằng pháp để làm lợi lạc cho quần sanh.

Tiếp theo, nhà giàu có Da Xá (Dasa), gia đình Da Xá, các bạn, và các người thân quen của Da Xá đượcđức Phật giáo hóa và làm đệ tử của Người. Trong số đó, những vị đệ tử đức hạnhtài đức, và nổi tiếngnhất của Người được liệt kê dưới đây là:

Tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta) – Vị có trí tuệ đệ nhất,

Tôn giả Mục-kiền-liên (Moggallana) – Vị có tấm lòng hiếu thảo và thần thông đệ nhất,

Tôn giả Ma Ha Ca-diếp (Maha Kassapa) – Vị Tổ Sư gương mẫu có khả năng thu nhiếp đại chúnglãnh đạoTăng đoàn, và tu hành khổ hạnh đệ nhất,

Tôn giả Tu-bồ-đề (Subhuti) – Vị quán chiếu tánh không (Suññatā) đệ nhất,

Tôn giả Phú-lâu-na (Purana) – Vị giảng Sư tài giỏi thuyết pháp đệ nhất,

Tôn giả Ca-chiên-diên (Kaccayana) – Vị luận Sư tài giỏi luận giải Phật pháp đệ nhất,

Tôn giả A-na-luật (Anurudha) – Vị có cái nhìn không chướng ngại, tức Thiên nhãn đệ nhất,

Tôn giả Ưu-ba-li (Upali) – Vị luật Sư gương mẫu trùng tuyên Luật tạng và trì Luật đệ nhất,

Tôn giả A-nan (Ananda) – Vị có khả năng nghe nhiều, tiếp thu, nhớ kỹ, trùng tuyên Kinh tạng, cũng là vị thị giả tướng hảotrung thànhtận tâm, chu đáo, và khéo léo đệ nhất,

Tôn giả La-hầu-la (Rahula) – Vị có hạnh nhẫn nhục, lắng nghe, chuyển hóa, và thực hành oai nghitế hạnh đệ nhất.

Nữ Tôn giả Kiều-đàm-di (Mahàpajàpati Gotami) – Vị Tổ Sư gương mẫu có khả năng thu nhiếp đại chúng,lãnh đạo Ni đoàn, và tu hành khổ hạnh đệ nhất,

Nữ trưởng giả Tỳ-xá-khư (Visakha) – Vị thí chủ hảo tâm bố thícúng dường, và hộ trì Phật pháp đệ nhất

Nam trưởng giả Cấp-cô-độc (Anathapindika) – Vị thí chủ hảo tâm bố thícúng dường và hộ trì Phật pháp đệ nhất

Vua A-dục (Ashoka) – vị hoàng đế thánh Phật tử có công truyền bá đạo Phật trong và ngoài nước Ấn Độđệ nhất.

 

Khi các đệ tử của đức Phật càng ngày càng đông, đức Phật động viên và khuyên bảo: “Này các Thầy Tỳ Kheo! Hãy ra đi nhiều hướng khác nhau để hoằng dương chánh pháp và cứu độ chúng sanh, hãy đem sựtu tậpan lạc và hạnh phúc của tự thân để giáo hóa tha nhân. Vì an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài người, các vị hãy truyền bá chánh pháp cho muôn loài. Giáo pháp của Như Lai toàn hảo ở chặn đầu, chặn giữa, và chặn cuối, cả tinh thần lẫn văn tự. Các vị hãy công bố đời sống thánh thiện và hòa bình cho số đông trên khắp hành tinh này.”(Xem Mahāvagga 19 – 20).

Về sau, đức Phật giáo hóa rất nhiều hạng người khác nhau trong mọi tầng lớp xã hội, như các vua quan, quần thần, thương gia, tôi tớ, thậm chí những kẻ hốt phân, kẻ sát nhân và kỷ nữ. Giáo pháp và Tăng đoàncủa đức Thế Tôn đều có khả năng dung nhiếp những người đến từ các giai cấptôn giáo, màu da, chủng tộc… khác nhau. Những ai có đủ duyên tu, học, hiểu, thực hành, và ứng dụng Phật pháp vào trong đờisống hằng ngày của mình một cách chánh niệm và tỉnh giác, thì họ có thể đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại.

Các đệ tử của đức Phật chủ yếu bao gồm hai Chúng: xuất gia và tại gia. Cả hai chúng này đều hỗ trợ với nhau như hình với bóng làm yếu tố then chốt để cùng nhau đem đạo Phật đi vào cuộc đời và giúp đời thêm vui bớt khổ.

Hoằng dương chánh pháp trong 45 năm, tất cả những gì đức Phật dạy như nắm lá cây trong lòng bàn tay nhằm giúp con người nhận diện và chuyển hóa khổ đau, và giúp họ sống đời sống an vui và hạnh phúcngay tại thế gian này.

Trước khi nhập Niết Bànđức Phật khuyên dạy các đệ tử: “Hỡi các đệ tử! Các pháp hữu vi đều vô thườngvà biến đổi. Các vị hãy tinh tấn tu học và thực hành phật pháp nhiều hơn nữa, để đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân. Đây là những lời giáo huấn tối hậu của Ta cho các người.” [Xem Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahàparinibbàna sutta) II số 16].

Trụ thế ở đời 80 năm, khoảng năm 544 trước công nguyên, lúc 80 tuổi, đức Phật nhập diệt tĩnh lặng, nằm nghiêng mình về hông phải, chân trái duỗi thẳng trên chân phải, đầu quay về hướng Bắc dưới hai cây song thọ tại rừng Sa La (Sala) tại quận Câu Thi Na (Kushinagar), Ấn Độ ngày nay.

Để tỏ lòng tôn kính và tri ân sâu sắc đối với đức Thế Tôn, mỗi người đệ tử của Ngài phải tự mình sống đúng với chánh pháp bằng cách không làm các việc ác, hãy làm các việc lành, giữ thân tâm thanh tịnh. Mỗi người chúng ta phải là món quà tu tập, hòa bình, an vui, và hạnh phúc đích thực để hiến tặng cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này. 

 

Kính chúc quý vị thân tâm thường an lạc và thấm nhuần giáo pháp của đức Thế Tôn.

                           Thích Trừng Sỹ Trú trì Chùa Pháp Nhãn Austin[3]

 

                                                              



[1]  Xem Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Sutta) thuộc Tương Ương Bộ (Samyutta Nikaya, 56: 11).

[2]  Xem S. III. 28. Sāriputtasaṃyutta;  CDB. III. Chap. VII. 1018.

[3] http://www.phapnhan.net/ http://phapnhantemple.com/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7446)
Con người cần làm việc để phục vụ an sinh đời sống hằng ngày, con người cần vật chất, con người cần tình cảm, con người cần tinh thần, con người cần ...
(Xem: 8555)
Niệm chết hay tưởng chết là một trong những đề mục tu tập quan trọng trong giáo pháp Thế Tôn.
(Xem: 9627)
Khi nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ, đến tuệ giác, đến trí tuệ. Điều ấy có nghĩa là đạo Phật không chấp nhận những vấn đề mê tín dị đoan.
(Xem: 7537)
Từ năm 2001, đầu thế kỷ 21, ngôn ngữ truyền thông bắt đầu nhắc đến nhiều từ ngữ “khủng bố,” “chủ nghĩa khủng bố” (terror/terrorism)...
(Xem: 7786)
Ăn chay đúng cách sẽ tránh được nhiều bệnh tật, các nhà khoa học chuyên nghiên cứu chất dinh dưỡng đều xác định rằng...
(Xem: 8696)
Trong cuộc sống hiện đại, kỹ thuật ngày càng tối tân, con người càng quay như chong chóng theo các công việc, gần như khôngthời gian cho...
(Xem: 8291)
Tinh thần trung đạo tràn ngập tuệ giác, không chấp thủ, thể hiện “tùy duyên mà bất biến, bất biến mà tùy duyên”.
(Xem: 8322)
Lễ Hội Địa Tạng Lần Thứ 5 Lần Thứ 5 vào các ngày 9,10/9/2016 tại Peek Funeral Home Westminster Memorial Park
(Xem: 7692)
Mối quan tâm của tôi trải rộng đến từng thành phần trong gia đình nhân loại, đúng hơn là đến tất cả chúng sinh đang phải gánh chịu khổ đau.
(Xem: 7610)
Người Phật tử chân chính cần phải biết rằng giàu hay nghèo đều là do nhân quả tốt xấu đã gieo tạo từ...
(Xem: 9124)
Khi gặp người cần sự giúp đỡ, nếu có thể hãy giúp họ, bạn đừng bỏ lỡ cơ hội, vì có thể một cái chìa tay của bạn sẽ làm thay đổi cuộc đời một con người.
(Xem: 13445)
Đức Phật đã từng chỉ dạy cho người tu, nhất là người tu thiền. Muốn tu đến nơi đến chốn thì phải tập tâm mình không dính, không ...
(Xem: 11056)
Câu chuyện này xảy ra khi đức Bổn sư ở tại Kỳ Viên với năm trăm Tỳ-kheo chứng quả.
(Xem: 6622)
Nếu trong tâm bạn chỉ chứa toàn là lòng từ bi, thì hận thù không còn nơi để tồn tại...
(Xem: 9044)
Tại sao gọi sức mạnh của sự tu hành là đạo lực? Bởi vì sức mạnh này khác với sức mạnh thế gian.
(Xem: 7637)
Trong sáu căn, mắt tai mũi lưỡi thân ý, có những căn ta thường xuyên xử dụng, cũng có những căn ta ít xử dụng hơn...
(Xem: 9000)
Giữa những ba đào xô động của cuộc sống hôm nay, có một lúc nào đó trong đời mỗi người, bỗng dưng tiếng vọng của quá khứ nghe ra tuyệt diệu quá chừng. ....
(Xem: 11418)
Dưới áp lực công việc, con người càng biết tận dụng, tranh thủ thời gian trong từng giây phút, cũng nhờ thế mà...
(Xem: 9339)
Hiện nay Phật giáo Việt Nam phần đông đều tu Tịnh độ, phương pháp này rất dễ tu. Tại sao tôi lại dạy tu thiền? Tu thiền khó hay dễ?
(Xem: 8478)
Trong bất cứ nền văn học nào của Phật giáo, chúng ta có thể thấy rằng, dù khởi sự từ đâu, tất cả mọi nguồn cảm hứng đều qui về nhân cách và đời sống của đức Phật.
(Xem: 7232)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng.
(Xem: 7682)
“Nhành dương liễu ban phép lành khắp cõi, Nước cam lộ dập tắt lửa sân si. Ngàn tay ngàn mắt che chở bước con đi, Mười hai đại nguyện dắt dìu chúng sanh.“
(Xem: 8544)
Người thế gian không hiểu nên thường oán trách cha mẹ không có phước nên sanh ra mình khổ, hoặc cha mẹ không có tài nên...
(Xem: 8018)
Nghiệp là gì ? Chữ nghiệp quá quen thuộc với ai là phật tử và cũng lần lần lan tỏa ra khắp mọi nơi, mọi người.
(Xem: 8162)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị.
(Xem: 6262)
Cả miền Nam và Bắc California năm nay bị cháy rừng liên tục mấy vụ từ cuối tháng 7 đến giữa tháng 8, thiêu rụi nhiều ngàn mẫu rừng và hàng trăm ngôi nhà.
(Xem: 8041)
"Tự do" là một thuật ngữ ngày nay thường nghe nói đến trong mọi lãnh vực: xã hội, chính trị, luật pháp, tín ngưỡng, ngôn luận, truyền thông và ...
(Xem: 8163)
Tôi thích phòng khách sạn này. Nó rộng rãi và trần cao, một trong ít phòng khách của Circuit House, một tòa nhà lớn...
(Xem: 12966)
Lời dạy của Đức Phật, được ghi chép lại dưới dạng Kinh, Luật, Luận. Hai ngàn sáu trăm năm đã trôi qua, bánh xe Đạo Pháp chuyển động không ngừng.
(Xem: 10201)
Tất cả mọi người đều biết khổ - nhưng không thật sự hiểu khổ. Nếu thực sự hiểu khổ thì chúng ta đã có thể chấm dứt khổ.
(Xem: 9725)
Đối với Phật giáo, nếu lỡ làm lỗi thì cũng không sao cả. Chúng ta không bắt buộc phải toàn hảo.
(Xem: 8815)
Nói đến đạo Phật là nói đến từ bi, lòng từ bi, tâm từ bi, tâm thương yêu, tâm thương xót, lòng nhân từ, lòng khoan dung độ lượng, v.v…
(Xem: 10169)
Sinh ra và lớn lên trong gia đình theo truyền thống Phật giáo, tôi được nuôi dưỡng để trở thành một nữ Phật tử Miến Điện điển hình.
(Xem: 9068)
Từ khi thành phố Đà Nẵng dựng tôn tượng lớn Bồ Tát Quán Thế Âm thì những cơn bảo lớn nguy hiểm ít đi vào vùng đất nầy.
(Xem: 11197)
Tùy duyênhoan hỷ chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, tạm ngưng tranh đấu và bình thản chờ đợi nhân duyên
(Xem: 8933)
Theo Phật giáo lịch sử, tinh thần đi khất thực trước tiên là thúc liễm thân tâm trao giồi đạo nghiệp.
(Xem: 8900)
Mất quê hương là mất cả cội nguồn yêu thương truyền nối từ bao đời tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Mất quê hương là...
(Xem: 8366)
Bồ đề tâm là nguồn mạch của tất cả chư vị Bồ Tát, và toàn bộ Giáo pháp chỉ để lợi lạc chúng sinh.
(Xem: 7854)
Lục hòa là một trong những nội dung tu tập quan trọng trong giáo pháp của Thế Tôn. Thanh tịnhhòa hợp là...
(Xem: 7804)
Năm người lính biệt kích hình thành một cái bia che chắn chung quanh Đức Đạt Lai Lạt Ma khi ngài cất bước lên con đường...
(Xem: 10303)
Chúng ta cần có sự học hỏi và đối thoại với các vị trưởng lão tỳ kheo, và tôi nghĩ rằng...
(Xem: 8769)
Trong đời sống thường nhật của Thiền môn, chúng ta ai ai cũng từng nghe qua câu phương ngữ...
(Xem: 8900)
Chúng ta có khả năng chuyển đổi thân, thì đối với tâm cũng thế. Thân có thể thay đổi như ...
(Xem: 9005)
Một vài ngày sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma gặp chàng trai mù ở Đạo Tràng Giác Ngộ, tôi có một...
(Xem: 7507)
Xả ly tham ái là một trong những nội dung tu học quan trọng trong giáo pháp của Thế Tôn.
(Xem: 7481)
Nếu chúng ta có tâm tu tậptu tập tốt thì dù là tu Tịnh hay tu Thiền, thảy đều được lợi ích trong hiện tại và...
(Xem: 8446)
Biểu hiện đầu tiên của tu tậpphát tâm buông xả. Sơ tâm hùng tráng là nguyện buông hết.
(Xem: 7711)
Đức Đạt Lai Lạt Ma rời khu vực giản dị của ngài ở tầng thượng một tu viện Tây Tạng tại Đạo Tràng Giác Ngộ và ...
(Xem: 8393)
Trong lịch sử nhân loại, chưa lúc nào mà nhu cầu làm sạch môi trường sống và thế giới lại khẩn thiết và cấp bách như hiện nay.
(Xem: 8531)
Giới luật là nền tảng của thanh tịnh; thanh tịnh là chất liệu cho hòa hợp. Không thanh tịnh thì khó lòng có hòa hợp trong...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant