Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thượng Võ Và Từ Bi

01 Tháng Tám 201815:02(Xem: 4509)
Thượng Võ Và Từ Bi

Thượng Võ Và Từ Bi

Nguyên Giác

 

Thượng võ, có nhiều nghĩa. Trong danh từ, nghĩa đơn giản là đề cao, ưa thích võ thuật. Nhưng tĩnh từ, có nghĩa là tâm hồn cao thượng của người đã sống được võ đạo, nghĩa là tử tế, công bằng, không gian lận. Đối với Phật tử, tinh thần thượng võ đã nằm sẵn trong năm giới, vì nếu không thượng võ, có nghĩa là đi trộm hào quang của đấu thủ khác, của đội tuyển khác, của quốc gia khác. Tuy nhiên, nếu giữ được thượng võ mà thiếu vắng từ bi, cũng không đúng Chánh pháp. Bởi vì từ bi do vì muôn dân mà làm, chứ không vì kiêu mạn.

Tất cả những cuộc tranh tài hiện nay đều cần tinh thần thượng võ. Tức là khi ra sức tranh tài, vẫn cố gắng giữ gìn sự tử tế, công bằng, một tinh thần mã thượng.

Tất cả các kỳ Thế Vận đều có một Lời Tuyên Thệ Thế Vận (The Olympic Oath). Không chỉ thuần túy để ngăn cản sự gian lận, nhưng cũng vì nhiều môn tranh tài trong Thế Vận có thể nguy hiểm, gây thương tích hay làm chết người như các môn đấu võ, đấu kiếm, bắn cung… Bất kỳ sự gian lận nào, ra ngoài nội quy  tranh tài, đều có thể nguy hiểm.

Trong lễ khai mạc Thế Vận, người đọc Lời Tuyên Thệ Thế Vận là người đại diện nước chủ nhà, sẽ cầm một góc lá cờ và đọc lên lời này.

Chữ “thượng võ” trong tiếng Việt khi dịch sang Tiếng Anh có thể là: chivalry (tinh thần mã thượng), knightliness (hào hiệp), sportsmanship (tinh thần thể thao), fair play (tranh tài công bằng)…

Lời Tuyên Thệ Thế Vận đầu tiên được tuyên đọc là năm 1920 trong Thế Vận Mùa Hè ở thành phố Antwerp (Bỉ quốc). Người tuyên đọc lúc đó là Victor Boin (vừa là kiếm sĩ, vừa là tuyển thủ môn bóng nước), với các lời này: “Chúng tôi thề. Chúng tôi sẽ tham dự Thế Vận trong tinh thần thượng võ, vì danh dự đất nước chúng tôi, và vì vinh quang thể thao.” (We swear. We will take part in the Olympic Games in a spirit of chivalry, for the honour of our country and for the glory of sport.)

Năm 1961, chữ “chúng tôi thề” sửa thành “chúng tôi hứa” và “danh dự đất nước chúng tôi” thay bằng “danh dự các đội của chúng tôi” nhằm xóa bỏ tinh thần quốc gia dân tộc trong Thế Vận. 

Có một số chuyện thường được kể về tinh thần thượng võ trong Thế Vận.

Trường hợp Thế Vận Berlin năm 1936, với hai tuyển thủ Nhật Bản về môn nhảy sào: Shuhei Nishida và Sueo Oe.

Sau khi tuyển thủ Mỹ Earle Meadows thắng Huy chương vàng môn nhảy sào, hai tuyển thủ Nhật Bản Nishida và Oe phải tranh nhau Huy chương bạc. Cả hai đều nhảy cùng một độ cao, nhưng Huy chương bạc được trao cho Nishida vì ít lỗi hơn Oe. Như thế, Huy chương đồng trao cho Oe. Tuy nhiên, khi về lại quê nhà, hai anh Nishida và Oe cắt đôi huy chương của họ làm thêm hai mảnh, để ráp lại làm thành hai huy chương mới: nửa bạc, nửa đồng. Báo chí lúc đó gọi đó là "các huy chương tình bạn."

Một trường hợp khác cũng thường được kể về tinh thần thượng võ: nữ kiếm sĩ Judy Guinness trong Thế Vận Los Angeles 1932.

Guinness đại diện Anh quốc trong cuộc thi môn đấu kiếm đơn kình với Ellen Preis, nữ kiếm sĩ Áo quốc. Guinness thắng Huy chương vàng. Tuy nhiên, Guinness thông báo Ban giám khảo rằng họ bỏ sót hai điểm cho cô Preis vì không thấy mũi kiếm cô Preis chạm vào bộ võ phục của Guinness. Khi tính điểm đó vào, kiếm sĩ Preis được  Huy chương vàng, Guinness được Huy chương bạc. Cực kỳ hy hữu. Bởi vì, không mấy người muốn rời ngôi "Thiên hạ đệ nhất kiếm" chỉ vì muốn giữ sự trung thực.

Tới đây, chúng ta có thể hỏi: các nhà sư Việt Nam đã xem việc luyện võ, hay việc luyện tập các môn thể thao như thế nào? 

Có thể thấy rằng, tất cả hành động của Phật tử, cho dù là xuất gia hay tại gia, đều phải từ lòng từ bi mà làm. Nếu giữ được thượng võ mà thiếu vắng từ bi, cũng không đúng Chánh pháp. Nói từ bi, là nói vì muôn dân mà làm, không phải vì tên tuổi cá nhân hay chỉ vì thuần túy tìm vui. Như thế, hạnh Bồ Tát có khi phải ra trận, chịu sát nghiệp… vì nếu sơ xuất, cứ xem Tây Tạng bị Trung Quốc xóa sổ mà biết lo.

Nhà vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo cả nước đẩy lùi các cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông, và rồi năm 1293, truyền ngôi cho thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó Trần Nhân Tông vào chùa, xuất gia, lấy hiệu Trúc Lâm đại sĩ, khai sáng Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Namtinh thần nhập thế.

Tâm từ bi của Trần Nhân Tông thể hiện ở nhiều trường hợp. Khi chiến thắng quân Nguyên xong, vua ra lệnh đốt tất cả những bằng chứng có thể kết tội những người đã từng đồng lõa với phương Bắc. Khi tang lễ cho thượng hoàng Thánh Tông năm 1290, Trần Nhân Tông nghe lời quan Đỗ Quốc Kế bằng cách dùng ngựa thay cho kiệu. Sách chép rằng Ngự sử đại phu Đỗ Quốc Kế khuyên vua Nhân Tông: "Phàm để tang không nên làm thương tổn người sống. Nay thiên tử đều dùng kiệu khiêng, thế là người sống bị tổn thương, xin hãy cưỡi ngựa" – và Nhân Tông nghe lời họ Đỗ. Để giúp dân khi đói nghèo, Trần Nhân Tông cũng phát chẩn, bỏ thuế đinh… 

Trong sử Việt cũng kể về các nhà sư giỏi các môn thể thao. Thí dụ, như trong môn chèo thuyền, có Thiền sư Pháp Thuận. Thực tế, chèo thuyền phải là chuyên nghiệp. Không ai tập vài ngày mà đóng vai chèo thuyền cho vững vàng. Bên cạnh kỹ năng khéo léo chèo thuyền, cũng phải có sức khỏe trên trung bình.

Pháp Thuận (914-990) trụ trì ở Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải. Sư học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ. Năm 987, có người Tống là Lý Giác sang sứ, vua Lê Đại Hành sai Sư cải trang làm kẻ lái đò để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Lý Giác cao hứng ngâm chơi hai câu thơ. Sư Pháp Thuận đang là anh lái thuyền cầm chèo, ngâm tiếp hai câu nối vần. Sứ nhà Tống kinh ngạc.

Nơi đây, nói về kỹ năng chèo thuyền, chúng ta không rõ Sư Pháp Thuận có dư sức để thi chèo thuyền Thế Vận hay không, nhưng hiển nhiên là phải giỏi môn thể thao này vậy.

nhà sư Việt Nam cũng giỏi môn cử tạ, vác được nhiều tấn đồng đen. Đó là trường hợp Không Lộ Thiền Sư. Ngài có tên Lý Quốc Sư (1065 – 1141), được vua phong quốc sư tên hiệu Nguyễn Minh Không, được dân tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng. Sư giỏi y lý, có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân, nên được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn. Đạo Mẫu tôn vinh Sư là vị thánh trong tứ bất tử. Truyền thuyết kể rằng Sư từng thò tay vào vạc dầu đang sôi vớt hàng trăm chiếc kim chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Phải chăng đó cũng là môn võ mình đồng da sắt? 

Theo truyền thuyết, Ngài Không Lộ từng chữa bệnh cho vua phương Bắc. Khi vua trả ơn, hỏi muốn lấy gì, Sư nói chỉ xin một ít đồng đen cho vào tay nải. Và thế là tất cả kho đồng của vua phương Bắc đều chui vào tay nải của ông trước sự kinh ngạc của triều đình. Ông lại thả nón tu lờ làm thuyền bơi về nước Nam. Về đến Thăng Long ông đúc thành chuông. Đó là ngoại sử… Thực tế, không thể có chuyện như thế, vì nếu như thế, Ngài Không Lộ đã phạm giới. Ông bà mình khi đưa vào huyền sử các chi tiết như thế, chỉ có ý cảnh giác đời sau phải coi chừng triều đình phương Bắc.

Nói vể luyện võ để hộ quốc an dân còn có Khâu Ni Công chúa, tên là Nàng A. Theo sách Danh tướng Việt Nam - Tập 4 của Nguyễn Khắc Thuần, do NXB Giáo Dục, ấn bản 2005, viết theo thần tích (sự tích chép lại để nơi đền thờ), cho biết đó nữ tướng này của Hai Bà Trưng nguyên là một ni cô, trích:

“Trong số các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng, có một nữ tướng rất đặc biệt, đó là Nàng A - vị nữ tướng vốn xuất thân là một nhà tu hành theo Phật giáo. Theo thần tích ở đền Nhật Chiêu (nay thuộc huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) thì Nàng A vốn là một cô gái xinh đẹp và rất chịu thương chịu khó (theo tờ thần tích này, Nàng A cũng có khi được chép là Quách A).

Bấy giờ, bọn tay sai nhà Hậu Hán định bắt Nàng A dâng nạp cho quan đô hộ để lấy thưởng, Nàng A đành bỏ làng vào núi để tu, cũng là để tạm lánh bọn ác quỷ. Từ đó, Nàng A có đạo hiệuNi cô Khâu Ni. Nơi Ni cô Khâu Ni tu hành nay chính là chùa Huyền Cổ. Vào thời ấy, quân đô hộ thi nhau ức hiếp dân lành, chúng tàn ác chưa từng thấy, người người đều oán giận, đến cả bậc tu hành từ bi như Khâu Ni cũng không thể nào chịu đựng nổi. Khâu Ni liền bí mật tập hợp những người giàu lòng yêu nước và quyết tâm giết giặc để sẵn sàng chờ cơ hội vùng lên.

Được tin Hai Bà Trưng cũng đang ráo riết chuẩn bị lực lượng cho một cuộc khởi nghĩa lớn, Khâu Ni lập tức đem toàn bộ lực lượng của mình về ra mắt Hai Bà. Hai Bà Trưng rất vui mừng, liền phong cho Khâu Ni làm Tả tướng. Và chính Tả tướng Khâu Ni là một trong những vị tướng có công rất lớn trong trận đánh quyết định vào thành Luy Lâu (Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), khiến cho tướng giặc là Tô Định bị đại bại, phải vất bỏ ấn tín, cạo râu, cạo tóc mà tháo chạy về Trung Quốc. Nhờ công lao này, Nàng được Trưng Nữ Vương phong làm Khâu Ni Công chúa và cho được cai quản vùng đất nay tương ứng với Yên Lạc (Vĩnh Phúc).

Nhưng sau ngày đại thắng chưa được bao lâu thì Khâu Ni Công chúa đã lâm bệnh rồi qua đời. Để khắc ghi công trạngân đức của Khâu Ni Công chúa, nhân dân ở nhiều địa phương nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc đã lập đền thờ Bà.”(ngưng trích)

Có một nữ tướng khác của Hai Bà Trưng đã từng hai lần vào Chùa Tiên La: đó là Bát Nàn công chúa. Đạo Mẫu thờ bà Bát Nàn, nên có nhiều đền thờ và có nhiều thần tích viết khác nhau. Bát Nàn tên là Thục Nương, có chồng là một Lạc hầu. Năm Kỷ Hợi 39, khi Đặng Thi Sách (chồng Bà Trưng Trắc) bị giết ở Châu Diên thì chồng bà Thục Nương cũng bị giết ở Diên Hà. Khi đó, quân Tô Định vây chặt dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà cầm song đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, bà rời chùa, theo giúp, giữ một đạo quân tiên phong. Năm 41, quân phương Bắc lui. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, bà cởi bỏ nhung trang trở về chùa làng Tiên La, lập trang ấp sinh sống. Năm 43, nhà Hán sai Phục Ba Mã Viện dẫn 20 vạn quân sang phục thù, bà dẫn thanh niên trong làng ra giúp nghĩa quân của Hai Bà Trưng. Thua trận, Hai Bà Trưng tuẫn tiết trên dòng sông Hát, trong khi Bát Nàn cùng tàn quân chạy về trú ngụ tại chùa Tiên La. Khi quân phương Bắc tới truy sát, vây chùa, bà rút gươm tự sát, không chịu để quân giặc làm nhục. 

Trong cõi này, hiển nhiên là có quá nhiều điều bất như ý. Bất hạnh nhất là rơi vào chiến tranh. Bởi vì, nghiệp sát là nặng. Nhưng trên thế giới chúng ta, không bao nhiêu chỗ có hòa bình. Như với người sinh nơi vùng Trung Đông, không thể nào sống đời bình yên được. Trường hợp như thế, chỉ có Đạo Phật là phao cứu người tuyệt vời nhất, trong đó từ bi luôn luôn là một phần của chìa khóa giải thoát. Bổn Sanh Truyện có kể về một kiếp quá khứ của Đức Phật, khi chiếc tàu chở 500 thương gia lênh đênh ngoài biển, một tên cướp muốn giết toàn bộ các thương gia để cướp tàu hàng. Người thuyền trưởng Bồ Tátlòng từ bi, không muốn tên cướp lãnh nghiệp sát quá nặng, nên mới giết tên cướp để Ngài sẽ nhận nghiệp sát vì lòng từ bi. Đó là một lựa chọn khó khăn.

Đối với các môn thể thao, lựa chọn thực ra dễ dàng hơn. Nhưng trước hết, và sau hết, tinh thần thượng võ phải khởi xuất vì lòng từ bi. Bởi vì, từ bi cũng là một chiếc ghe để qua bờ bên kia.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4620)
Thời đại bây giờ hầu như con người cứ bị xoáy vào cơn lốc của cuộc sống một cách mãnh liệt, thế nên rất nhiều người cảm thấy bức bối...
(Xem: 3978)
Theo Kim Cang Thừa, con đường nhanh chóng để tỉnh thức là nhìn thẳng vào tâm của chính bạn và nhận ra bản tánh thật của tâm.
(Xem: 3263)
Hiện nay, Phật giáo Việt Nam đang đẩy mạnh công tác hoằng pháp, coi đó là chiến lược mũi nhọn để phát triển Phật giáo.
(Xem: 3425)
Sau khi đức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy tư và tuyên bố rằng: “Xa lìa dục vọng, được sự tịch tịnhthù thắng nhất!”
(Xem: 3783)
Tại Kinh Thành có một vị cư sĩ, có thể nói là bậc “Thiên kinh vạn quyển”, viết không biết bao nhiêu bài bình giảng về giáo lý...
(Xem: 3952)
Khi cầu nguyện, tâm trở nên tĩnh lặng và tập trung. Đó là việc khá tốt cho đời sống nhân loại khi những cầu nguyện mang tính chân, thiện, mỹ.
(Xem: 3570)
Thế là đến chiều tối, đức Phật và chúng tỳ-khưu mới tới được nơi dự định. Trăng vừa lên, sương mù bàng bạc, không gian như trải một màn lụa mỏng.
(Xem: 4540)
Mưa xuân không tầm tã, không kéo dài. Chỉ một hai cơn, trong một hai ngày, vừa đủ tắm ướt những ngọn lá và...
(Xem: 3890)
Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng, là một nhân vật quen thuộc của công chúng.
(Xem: 3367)
Như tất cả những vị nghiên cứu đều biết rằng Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh chủ trương, hầu hết được dịch thẳng từ bản chữ Hán của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 3838)
Vào giữa thập niên 1980, Elizabeth Harris, một Kitô hữu người Anh, cảm thấy sự thúc giục phải buông bỏ đức tin tôn giáo cố hữu của mình để...
(Xem: 3541)
Tenzin Gyatso, người được những tín đồ và những người ngưỡng mộ ngài tôn xưng là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 2888)
Bài Pháp thoại (Dharma Talk) ngày 28 tháng 3 năm 2021 tại Chùa Beeh Low See, Singapore và Chùa Mahakaruna Buddhist Center cũng như Chùa Vihara Mahavira Graha Medan tại Indonesia.
(Xem: 3556)
“Một thời Đức Phật ở Câu-tát-la, du hành giữa nhân gian và có đại chúng Tỳ-kheo đi theo.
(Xem: 3820)
"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, là gì?" Xếp Kinh lại gối nơi đầu, ngủ trong dòng suối mát của lời Kinh nhiệm mầu.
(Xem: 2964)
Theo quan điểm của anh chị, Nhẫn nhụcAn phận khác và giống nhau chỗ nào? Quý anh chị chia sẽ kinh nghiệm Người Huynh Trưởng thực hành Hạnh Nhẫn Nhục như thế nào trong đời sống và sinh hoạt GĐPT?
(Xem: 5122)
Mưa xuân không tầm tã, không kéo dài. Chỉ một hai cơn, trong một hai ngày, vừa đủ tắm ướt những ngọn lá và thấm một lớp mỏng
(Xem: 3595)
Vào ngày rằm tháng 4, năm 623 trước công nguyên tại vườn Lâm Tỳ Ni gần thành Ca Tỳ La Vệ, một nơi hiện nay là...
(Xem: 3377)
Vào giữa thập niên 1980, Elizabeth Harris, một Kitô hữu người Anh, cảm thấy sự thúc giục phải buông bỏ đức tin tôn giáo cố hữu của mình để bước vào thế giới một đức tin khác.
(Xem: 3977)
Tenzin Gyatso, người được những tín đồ và những người ngưỡng mộ ngài tôn xưng là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma, tự gọi ngài là một thầy tu giản dị
(Xem: 3957)
Thiền sư Seigan Shōtetsu (1381-1459) là một trong vài người làm thơ nhiều nhất trong thi giới Nhật Bản.
(Xem: 4426)
Bây giờ chúng ta đến trình độ thậm thâm nhất của từ ái và bi mẫn, trình độ này là có thể bởi kiến thức về tính không của sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 3815)
Huyền Trân Công Chúa, một anh thư rực sáng của nền trời nước Việt!
(Xem: 4165)
Bốn mươi câu trích dẫn lời Đức Phật dưới đây được chọn lọc trong số 60 câu đã được đăng tải trên một trang mạng bằng tiếng Pháp
(Xem: 3857)
Giảng luận về bài “ Bình Ngô Đại Cáo” ( 曹鶴岱平 ) ( Great Proclamation of Đại Việt Victory over Northern Invaders, translated by Prof. Nguyễn Cao Hách – University of Saigon )
(Xem: 3835)
Tôi nhớ lại một cuộc trao đổi đầy băn khoăn vài năm trước đây mà tôi có với một người Mỹ
(Xem: 3872)
Vào ngày 06.3.2021, Tu Viện Pháp Vương khởi sự cho một công trình "Ngày Hội Trồng Cây". Quí Phật tử vân tập về mảnh đất yêu thương của mình mà Tu Viện đã sẵn sàng cho khoảnh vườn cây ăn trái.
(Xem: 3870)
Tôi chưa bao giờ được rèn luyện trong khoa học. Kiến thức của tôi chính yếu có từ việc đọc những tin tức bao gồm...
(Xem: 4365)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 4235)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 3427)
Cách nay chừng vài tuần lễ tôi nhận được một phong thư dày gửi đi từ Thầy Thanh An ở Tích Lan, trong đó có quyển sách trên. Sách do nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2020
(Xem: 3394)
Bây giờ chúng ta đến trình độ thậm thâm nhất của từ ái và bi mẫn, trình độ này là có thể bởi kiến thức về tính không của sự tồn tại cố hữu.
(Xem: 3344)
Vào lúc Hán học còn thịnh hành tại Việt Nam trước 1975, những nghiên cứu về phật giáo đa phần quy chiếu vào kinh sách hay ...
(Xem: 5707)
Phật tánh là tạng báu tánh giác (giác bảo tạng) mà tất cả chúng sanh đều sẳn có, như kho vàng ròng của người...
(Xem: 3688)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại...
(Xem: 4003)
Trong chương này tôi sẽ giải thích về tính vô thường, trình độ thứ nhất của hai trình độ của tuệ giác vào tiến trình của sinh tử luân hồi.
(Xem: 4163)
Trong Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Thế Tôn đã dạy cho Long Vương ở tại cung điện Long Vương Ta Kiệt La rằng...
(Xem: 3696)
Cứ mỗi độ xuân về, khoảng đầu tháng chạp là nhà ngoại rộn ràng tất bật.
(Xem: 4340)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo.
(Xem: 4142)
Có một vấn đề tưởng chừng như đáng cho Phật tử chúng ta để ý: Vấn đề ân nghĩa.
(Xem: 4207)
Mỗi năm Tết đến, khi những làn mưa Xuân nhè nhẹ, gió Xuân mơn man ùa về trên những vườn mai vàng, những cành đào
(Xem: 3672)
Hoằng pháp là một trong những trách nhiệm quan trọng của người đệ tử Phật. Chính vì thế mà chư tổ dạy rằng
(Xem: 3488)
con người, chúng ta sống trong đời này đều trải qua nhiều giai đoạn với niềm vui lẫn nỗi buồn.
(Xem: 3898)
Cuộc pháp thoại giữa Đức PhậtTrưởng lão Tu Bồ Đề trong kinh Kim Cang Bát Nhã là một pháp thoại sâu sắc
(Xem: 3931)
Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng...
(Xem: 3677)
Trên con đường tu hành, hành giả thường gặp phải những thứ chướng ngại và những thứ chướng ngại đây gọi chung là “Ma”.
(Xem: 5301)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người cảm thấy rất khó để hướng lòng nhân ái đến bản thân.
(Xem: 3100)
Cảm Nhận Sự Thấu Cảm - Nguyên bản: Feeling Empathy. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 7321)
Tư Tưởng Phật Giáo Trong Văn Học Thời Trần - Tác giả: Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3504)
Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúatác phẩm có tính đặc trưng nhất về thủ pháp nghệ thuật lồng ghép truyện trong truyện, đan xen tình tiết, cài cắm tư tưởng khi trần thuật của nhà văn Thích Như Điển
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant