Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Thời Làm Điệu

03 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 15525)
Một Thời Làm Điệu

Quãng đời ấy, là quãng đời của tôi có thật, nhưng xin quý vị đọc mà đừng tin, vì sự kiện ấy là của một thời gian đã đi qua, nó đã trở thành nắng mưa, sương gió, và mây trời đang rong chơi giữa cõi vô cùng, mà thực tại hiện tiền là quý vị đang đọc tôi viết “Phật Tâm và Tâm Phật” trên giấy mà không phải là trên cát…!

mot_thoi_lam_dieuTrò chơi và lời tiên tri
Năm tôi học lớp nhì (nay là lớp bốn), trường làng, giờ giải lao, thầy giáo bảo, trong lớp có em nào có khả năng ngồi yên để cho những người khác vọc mà không cười?
Nhiều học sinh dong tay, trong đó có tôi. Những người dong tay lần lượt lên ngồi ngay giữa lớp để cho những người có khả năng vọc cười, tìm mọi cách làm cho người ngồi yên ấy phải bật cười.
Trong những người ngồi yên ấy, không ai là không bật cười, bởi những người có khả năng vọc người khác cười ấy, họ có khả năng vọc cười một cách rất thiện xảo, chỉ có mình tôi là bất động từ đầu đến cuối.
Thầy giáo tuyên bố trong cuộc chơi nầy, em Trí (tên tôi) thành công. Và thầy giáo còn nói, em Trí có khả năng làm thầy tu trong tương lai.
Như vậy, theo thầy giáo ngày ấy, cho rằng: Thầy tu phải là người có khả năng ngồi bất động trước những ồn ào và giễu cợt của mọi người.

Cỏ là lá

Học xong tiểu học, tôi xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ tôi đồng ý và đưa tôi đến chùa Phước Duyên-Huế, xin thầy trú trì cho tôi được xuất gia. Được thầy đồng ý mà không có điều kiện nào cả, bấy giờ tôi và cha mẹ tôi hết sức vui mừng.
Cha mẹ tôi ký thác tôi cho thầy, rồi lạy thầy, chào ra về và dặn tôi: “Tu là khó lắm, con đã ưa, thì phải cố gắng làm cho được, và ba mẹ cũng cố gắng tu để giúp con. Và con phải luôn luôn biết vâng lời thầy dạy. Thầy là người cha tinh thần đó nghe không. Con hãy gắng lên, ba mẹ về nhé!”.
Tôi rươm rướm nước mắt, chắp tay tiễn đưa cha mẹ ra khỏi cổng chùa và đứng yên lặng đưa mắt dõi nhìn theo cha mẹ với hai tâm trạng, một tâm trạng ưa tu và một tâm trạng còn tiêng tiếc, cho đến khi cha mẹ đi khuất dạng, tôi từ tam quan đi vào, thầy bảo, Trí lấy chổi quét sân chùa đi con!
Như vậy, bước đầu hành điệu của tôi là quét lá sân chùa.
Ở nhà, tôi chưa bao giờ biết cầm chổi để quét nhà và sân, kể cả giặt áo quần, vì tất cả việc ấy đều có các chị tôi, còn tôi chỉ biết ăn, học, chơi và nghịch.
Vì là chưa bao giờ cầm chổi để quét, nên từ cách cầm chổi đến cách quét đều là lúng túng, nên thầy tôi đã dạy cho tôi bài học hành điệu đầu tiên là quét.
Thầy tôi dạy cho tôi cách cầm chổi và cách quét, phải đưa những lát chổi nhanh, mềm và nhẹ, không nên quét ngược gió, quét lá đến những chỗ thấp un lại và hốt đổ sau vườn chè để làm phân cho cây.
Lại nữa, mỗi khi quét phải biết quét từ chỗ cao đến chỗ thấp, để những chỗ thấp ấy lâu ngày cũng biến thành chỗ cao, nhìn vào thấy đẹp, nghe không Trí!
Nghe lời thầy dạy, trong lòng rộn lên những nỗi vui mừng, vì ở nhà có khi nào mình được cha mẹ dạy cho mình cách quét này đâu. Ngay cả năm năm học ở trường làng cũng không nghe thầy cô nào dạy cho mình quét sân, quét nhà kiểu này cả.
Tôi vui sướngthực tập mỗi ngày, thỉnh thoảng nỗi nhớ nhà gợn lên trong tâm, tôi hát nghêu ngao, lát chổi không chủ động. Thầy tôi nhìn thấy vậy và hỏi: Trí, một tuần rồi, con quét đã được chưa? Tôi bỏ chổi xuống, chấp hai tay, dạ bạch thầy, tạm được.
Thầy cười và nói: “Được đâu mà được, còn lâu lắm con ạ”.
Một tuần sau nữa, thầy lại hỏi Trí quét sân chùa đã sạch chưa con?
Tôi chắp tay cúi đầu và thưa: Kính bạch thầy, dạ sạch!
Thầy cười và nói: “Sạch đâu mà sạch”. Nghe thầy dạy, tôi nhìn lui, nhìn tới, nhìn qua, nhìn lại trên sân chùa không còn một chiếc lá nào, mà sao thầy nói với mình sân chùa chưa sạch.
Biết ý tôi băn khoăn, thầy dạy: “Trên sân chùa, mới sạch lá, chứ đâu đã sạch cỏ. Sân chùa có cỏ, làm sao gọi là sân chùa sạch được. Trước sân chùa, cỏ cũng là lá đó con à!”.
Như vậy, mới ở chùa hành điệu một tuần, tôi đã học đến hai bài học, một bài là “quét”; và một bài học “cỏ là lá”. Hai bài học thật hết sức thực tế và thâm trầm.

Tiếng chuông đã ngân tròn

Như vậy, mỗi ngày qua là mỗi ngày tôi cầm chổi quét lá và nhổ cỏ sân chùa. Tối hôm ấy, thầy gọi tôi lên phương trượng và dạy tôi cách thỉnh chuông.
Thầy ngồi đó, thật yên lặng, và trao cho tôi dùi chuông Gia trì, rồi bảo tôi đánh vào cái chuông.
Tôi lúng túng và đánh theo bản năng. Nghe tiếng chuông, thầy cười và nói: “Đánh chuông như vậy, thì chuông cũng sợ và người nghe chuông cũng hư lỗ tai”.
Thầy dạy, trước khi thỉnh chuông con phải đứng thật yên lắng hay ngồi thật yên lắng, tập trung tâm ý lại, theo dõi ba hơi thở vào và ra thật sâu, sau đó chắp tay vái, nắm dùi chuông lên, với ý thức rõ ràng, đưa dùi chuông chạm nhẹ vào chuông để thức chuông, sau đó đưa dùi đánh nhẹ vào chuông và chuông sẽ ngân lên tiếng.
Rồi ta phải tập trung tâm ý để theo dõi tiếng chuông ngân lên ngắn hay dài, âm phát ra thanh hay đục, tiếng ngân lên tròn hay chưa tròn.
Thầy dạy: Thỉnh chuông là cả một công phu tu tập. Nếu ta thỉnh chuông với tâm như thế nào, thì tiếng chuông sẽ phản hồi đúng như tâm ta vậy.
Ta thỉnh chuông với tâm vội vã, thì tiếng chuông cũng vội vã như tâm ta vậy; ta thỉnh chuông với tâm đằm thắm, sâu lắng, thì tiếng chuông ngân lên cũng sâu lắng, đằm thắm như tâm ta vậy. Ta thỉnh chuông với tâm nguyện rộng lớn, thì tiếng chuông ngân lên, lan xa và rộng lớn như tâm ta vậy. Và ta thỉnh chuông với tâm ý thức trọn vẹn, thì tiếng chuông ngân lên cũng trọn vẹn như tâm ta vậy.
Nên, con hãy thực tập thỉnh chuông mỗi ngày.
Như vậy, mỗi ngày đi qua, là mỗi ngày tôi thực tập thỉnh chuông gia trìđại hồng chung sớm tối.
Sau một thời gian thực tập, thầy tôi gọi tôi và dạy: ‘Tiếng chuông gia trìđại hồng chung điệu thỉnh, đứng xa nghe đã tròn”.
Nghe lời thầy dạy, trong lòng vui mừng, đầy khích lệ, nhưng thật ra chưa đủ để tự tin.

Thi kệ đầu tiên

Đáng lẽ thầy trao cho tôi, thi kệ đầu tiên là “Tảo Giác” (dậy sớm), để học thuộc lòngthực tập, nhưng không. Thầy lại trao cho tôi bài kệ đầu tiên ở trong Mông sơn thí thực, và buộc học thuộc lòng.
Bài kệ ấy là:
“Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế, nhất thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo”.
 
Nghĩa là:
Nếu người nào muốn biết
Tất cả Phật ba đời
Nên nhìn tính vũ trụ
Tâm tạo thành tất cả.
Thi kệ thầy trao buổi sáng là buổi chiều phải thuộc nhuần nhuyễn để trả bài.
Bấy giờ, suốt lá, nhổ cỏ, gánh nước, dọn cơm, rửa chén bát, thỉnh chuông, lau bàn ghế… hay làm bất cứ công việc gì, tôi đều phải lẩm nhẩm trong miệng cho thuộc.
Tối lại gọi lên dò thi kệ, thầy hỏi: Điệu đã thuộc thi kệ chưa? Bạch thầy! Con đã thuộc. Đọc đi xem. Tôi đọc thuộc lòng nhuần nhuyễn. Nhưng thầy gạn lại và hỏi, điệu học thuộc lòng như vậy, trong đó, điệu có biết chữ “Phật” nằm câu mấy? Tôi ngần ngừ, thầy cười và nói: xuống học tiếp, tối mai trả bài.
Đúng, tối mai trả bài, thầy không hỏi tôi chữ “Phật” mà thầy hỏi chữ “Quán”, nằm câu mấy trong bài kệ? Tôi lại ngần ngừ, thầy cười và nói: “Điệu thấy chưa, thuộc mà chưa thuộc”.
Thầy dạy: xuống học tiếp, tối mai dò nữa nghe chưa.
Đúng, tối mai dò bài, thầy không hỏi tôi, chữ “Phật” và chữ “Quán”, mà thầy hỏi tôi chữ “Tâm” nằm ở đâu? Tôi nói ngay dạ bạch thầy, chữ “Tâm” nằm chữ thứ tư trong câu thứ tư.
Thầy tôi lắc đầu và nói: chưa thuộc bài, đi xuống hỏi các sư huynh, khi nào điệu cảm thấy thuộc bài thì lên gặp.
Tôi vái thầy, đi lui, suy nghĩ không biết thuộc bài là thuộc cái gì nữa?
Ba ngày sau, thầy gọi lên, dò tiếp bài kệ. Thầy hỏi: Điệu đã thuộc bài kệ chưa? Tôi đứng chấp tay im lặng. Thầy nói: điệu đọc bài kệ và dịch nghĩa xem. Tôi dạ, liền đọc thuộc lòng và dịch nghĩa bài kệ cho thầy nghe, giống như thầy đã từng dịch. Thầy không khen, không chê mà lại hỏi. Trong bài kệ ấy chữ “Nhân” nằm ở đâu. Tôi dạ, bạch thầy, nằm thứ hai trong câu đầu.
Thầy cười và nói: Điệu chưa thuộc bài đâu nhé, phải học tiếp bài kệ ấy cho thuộc. Thầy nói: điệu xuống xúc cát đổ vào nơi cái khay, đem lại đây, thầy dạy cho mà học.
Vái thầy để lui. Vừa đi, tôi lại vừa suy nghĩ: học gì mà học cát ở nơi khay, lạ nhỉ?
Đúng, bấy giờ tôi chẳng hiểu một tí ý gì của thầy dạy cả.
Tôi cố gắng đem cái học và cái thông minh ở đời để hiểu lời thầy dạy, nhưng chẳng hiểu được cái gì. Cái học ngoài đời, cái học trong đạo, cái dạy ngoài đời và cái dạy trong đạo khác nhau quá mức, vừa đi, tôi vừa suy nghĩ như thế, với tâm trạng của một chú điệu đầy háo hức và tò mò!

Phật Tâm trên cát

Vâng lời thầy, tôi xuống xúc cát đổ vào một cái khay và đem lên trình thầy, với tâm đầy háo hức.
Bài kệ đầu tiên ấy, thầy viết bằng chữ Hán trên giấy, từng nét chữ rõ ràng, trao cho tôi và nói:
Điệu hãy nhìn đây, bắt chước mà viết. Viết bên trái trước, bên phải sau, trên trước, dưới sau. Và thầy liền đưa ngón tay viết ngay chữ “Phật” và chữ “Tâm” trên cát cho tôi xem, rồi thầy lại xóa và viết tiếp chữ “Nhân” và chữ “Tâm” cho tôi xem; rồi thầy lại xóa và viết tiếp chữ “Quán Phật” cho tôi xem, rồi thầy lại xóa và lại viết chữ “Quán Tâm” cho tôi xem, rồi thầy lại xóa và hỏi Điệu đã biết cách viết chưa?
Tôi dạ và thưa thầy rằng: con thấy chữ “Quán” (觀) sao viết nhiều nét, khó nhớ và khó viết quá!
Thầy cười và nói: mới viết không mà đã thấy khó, huống chi là “Quán”! Nhưng, không sao, chẳng có gì khó cả, nếu đã quyết tâm!
Tôi dạ, thầy nói: Điệu hãy bưng khay cát vào phòng, ngồi yên lắng một mình để tiếp tục viết và học đi!
Vâng lời thầy, tôi bưng khay cát vào phòng ngồi một mình và bắt đầu đưa ngón tay viết chữ trên cát. Mắt tôi đăm nhìn từng nét, miệng lẩm bẩm “Phật” rồi xóa; cứ như thế tay tôi viết “Phật”, mắt tôi nhìn “Phật”, miệng tôi lẩm bẩm “Phật”, rồi đưa tay xóa cát; và đến lược viết chữ “Tâm” cũng vậy, rồi tôi viết ghép hai chữ “Phật Tâm”, mắt tôi nhìn “Phật Tâm”, miệng tôi lẩm bẩm “Phật Tâm”, “Phật Tâm”, “Phật Tâm”…, rồi xóa đi và viết lại.
Cứ như vậy mà viết, càng viết thấy lòng mình càng vui, thấy tay mình càng nhuyễn và chữ mình càng đẹp so với bước khởi đầu.
Và tôi lại viết ghép ngược lại, thay vì viết “Phật Tâm”, tôi lại viết “Tâm Phật”. Tay tôi viết “Tâm Phật”, mắt tôi nhìn “Tâm Phật”, miệng tôi lẩm bẩm “Tâm Phật”, cứ như vậy, hết viết đến xóa, hết xóa đến viết không biết bao nhiêu lần!
Trong quãng đời hành Điệu, thầy tôi đã dạy tôi viết “Phật Tâm” trên cát, tôi không những vâng lời thầy viết “Phật Tâm” mà còn viết ngay cả “Tâm Phật”, trên cát để cúng dường thầy nữa.
“Phật Tâm và Tâm Phật” đã gắn liền với quãng đời hành Điệu của tôi.
Quãng đời ấy, là quãng đời của tôi có thật, nhưng xin quý vị đọc mà đừng tin, vì sự kiện ấy là của một thời gian đã đi qua, nó đã trở thành nắng mưa, sương gió, và mây trời đang rong chơi giữa cõi vô cùng, mà thực tại hiện tiền là quý vị đang đọc tôi viết “Phật Tâm và Tâm Phật” trên giấy mà không phải là trên cát…!

Thích Thái Hòa
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2068)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2220)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1727)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2037)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1745)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1733)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1905)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1913)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1568)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1736)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2079)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1829)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2392)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1718)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1722)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1683)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2127)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1952)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2096)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1633)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2255)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1599)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1876)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1771)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1830)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1674)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2415)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2125)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2071)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1878)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2234)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1802)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1924)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2158)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1686)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1951)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1946)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2158)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1930)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1769)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1752)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1762)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1881)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2164)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1717)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1685)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2254)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1958)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1784)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2358)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant