Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Như Hóa

19 Tháng Chín 201807:40(Xem: 5142)
Như Hóa

NHƯ HÓA 

Nguyễn Thế Đăng


Nhu Hoa


Nhóm Tỳ-kheo được vô lậu giải thoát sau khi nghe Tỳ-kheo do Bồ-tát Văn-thù-sư lợi biến hóa ra giảng giảicho về pháp giới thể tánh. Sau đó, nhóm ấy trở vềchỗ ngài Văn-thù, gặp ngài Tu-bồ-đề. “Ngài Tu-bồ-đề nói: Ai điều phục các ngài?

Nhóm Tỳ-kheo ấy nói: Thưa Đại đức Tu-bồ-đề! Người không có sở đắc, không có sở giác là người điều phục chúng tôi. Người ấy chẳng sanh cũng chẳng diệt độ, chẳng phải thiền định cũng chẳng loạn tâm.

Bấy giờ ngài A-nan hỏi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Các Tỳ kheo ấy được ai điều phục?

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức A-nan! Đó là người không có uẩn, giới, nhập; cũng chẳng phải phàm phu, chẳng phải Thanh văn, chẳng phải Duyên giác, chẳng phải Bồ-tát, chẳng phải Như Lai; chẳng phải tương ưng với thân, chẳng phải tương ưng với ngữ, chẳng phải tương ưng với ý”.

Người điều phục cho các Tỳ-kheo là biến hóa của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi và chính bản thân ngài Văn-thù sư-lợi. Người ấy đã đạt rốt ráo tánh Không, vượt khỏi thế gian và xuất thế gian: “chẳng sanh cũng chẳng diệt độ, chẳng phải thiền định cũng chẳng loạn tâm”. Người ấy chẳng dính dấp với thế gian và cũng vượt khỏi cả giải thoát: “không có uẩn, giới, nhập; cũng chẳng phải phàm phu, chẳng phải Thanh văn, chẳng phải Duyên giác, chẳng phải Bồ-tát, chẳng phải Như Lai”.

Tánh Không là phương tiện thiện xảo đệ nhất để một người không ở bờ bên này (sanh tử) cũng không ở bờ bên kia (Niết-bàn). Tánh Không là Trung đạo. Thế nên, những tác phẩm của Bồ-tátLong Thọ hoàn toàn nói về tánh Không nhưng những tiêu đề không lấy danh từ tánh Không mà lấy từ Trung đạoTrung(đạo) luận, Nhập Trung (đạo) luận…, tông của ngài gọi là Trung quán tông(Madhy amika).

Vì Bồ-tát chứng tánh Không Trung đạo, nên “chẳng phải tương ưng với thân, chẳng phải tương ưng với ngữ, chẳng phải tương ưng với ý” và như thế chẳng tương ưng với sự tịch diệt của thân ngữ ý. Nói theo ngài Văn-thù-sư-lợi ở phần đầu kinh thì “Tất cả các pháp giới (thân, ngữ, ý) là pháp giới thể tánh”.

 Đoạn kinh tiếp theo:

Ngài A-nan nói: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, ngài nói người nào vậy? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: ThưaĐại đức A-nan, nếu như Đức Như Lai biến hóa ra người hóa, thì người hóa ấy có tương ưngchăng?

Ngài A-nan nói: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, người hóa không có pháp gì để có thể cùng tương ưnghay chẳng tương ưng.

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức A-nan, tất cả pháp thể tánh là hóa. Chính hóa ấy điều phụcnhóm Tỳ-kheo ấy”.

Một Bồ-tát chứng tánh Không thì như người hóa, hoặc nói theo các kinh khác là người huyễn. Người hóa thì “không có pháp gì để có thể cùng tương ưng hay chẳng tương ưng”. Như hoa đốmgiữa trời, như ánh nắng dợn trên sa mạc mà tưởng là nước, như mặt trăng trong nước, như giấc mộng, như thành phố Càn thát-bà trong mây… không phải là pháp có thật, nên nói tương ưng hay chẳng tương ưng đều là vô nghĩa; nói có hay không, sanh hay diệt, dơ hay sạch, tăng hay giảm… đều vô nghĩa.

“Tất cả pháp thể tánh là hóa”, nghĩa là tất cả pháp là sự hóa hiện của pháp giới thể tánhNhư Hóathân là sự hóa hiện từ Pháp thân và của Pháp thân. Như tất cả mọi làn sóng là sự hóa hiện của đại dương. Như tất cả mọi bóng trong gương là sự hóa hiện của ánh sáng tấm gương, không có ánh sáng của gương thì không có bóng nào cả. Những hóa hiện ấy chẳng phải khác mà cũng chẳng phải không khác với thể tánh của chúng, do đó được gọi là như huyễn.

Bát-nhã tâm kinh nói: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”. Chẳng khác tức là vẫn có sắc, vì không phải xóa bỏ tất cả sắc mới có Không. Vậy, sắc có xuất hiện nhưng như huyễn. Sắc là hóa hiện của Không, tùy theo nghiệp thức của từng loài. Tất cả các hiện tượng thể tánh là hóa, tất cả các hiện tượng là sự hóa hiện của tánh Không. Cho nên, các hiện tượng chẳng khác tánh Không, đó là về mặt thể tánh; nhưng chẳng phải không khác về mặt hiện tướng xuất hiện. Sóng chẳng khác đại dương về mặt thể tánh, nhưng khác với đại dươngvề mặt hiện tướng xuất hiện. Nói cách khác, sóng là sự biểu hiện phong phú của đại dương, các tướng là sự biểu hiện phong phú của tánh Không, nhưng sự biểu lộ đó không thậtnhư huyễn.

Một Bồ-tát là người chứng được “tất cả pháp thể tánh là hóa”, mặc dù sự chứng này có sâu có cạntùy theo cấp độ cao thấp của con đường Bồ-tát. Và chính sự chứng ngộ “tất cả pháp thể tánh là hóa” là nền tảng của công việc tự giácgiác tha của Bồ-tát. Bồ-tát phải ở thế gian với chúng sanh thì mới giúp đỡ, cứu độ chúng sanh được. Nhưng Bồ-tát giải thoát ngay trong việc ở thế gian vàcứu độ chúng sanh, vì tất cả các pháp thế gian và chúng sanh thể tánh là hóa, là như huyễn. Bồ tát là hóa, công việc tự giác giác tha của Bồ-tát là hóa: “Chính hóa ấy điều phục nhóm Tỳ-kheo kia”.

Chính nhờ tu hóa và chứng hóa mà Bồ-tát dầu cứu độ vô số chúng sanh mà không thấy có chúng sanh nào được độ, như kinh Kim Cương nói. Ở đây, kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệtnói, chúng sanh là hóa:

“Bồ-tát là người không tư duykhông quán sát; vì ngã tịch tĩnh vậy. Là người không có tự ngã; vìquán sát chúng sanh hóa là vô ngã vậy”.

Quán thấy chúng sanh là hóa là huyễn, hơn nữa, nghiệp của chúng sanh là hóa là huyễn, nên Bồ-tát không bị cuốn vào cảnh khổ cảnh vui của chúng sanh, do đó hết sức độ chúng sanh mà vẫnbình an phẳng lặng trước tám ngọn gió đời (bát phong: 1. Lợi ích, 2. Suy kém, 3. Chê, 4. Khen, 5.Ca ngợi, 6. Chê trách, 7. Khổ, 8. Vui.

Không phản ứng với tám ngọn gió đời, đó là lòng từ bi sâu sắc nhất. Nhờ hóa mà một Bồ-tát “không tương ưng với thân, ngữ, ý” của mình cho nên tự thân không có nghiệp, lại cũng khôngtương ưng với chúng sanh và nghiệp của chúng sanh như hóa, nên cũng không tạo nghiệp vớichúng sanh, không ảnh hưởng bởi chúng sanh, dù vẫn làm việc cứu độ chúng sanh không mệt mỏi.

Hóa là sự biểu lộ như huyễn của tánh Không, nên thiền định thiền quán hóa tức là tu tánh Không, và tánh Không là nền tảng của con đường Bồ-tát.

Nguyễn Thế Đăng
Văn Hóa Phật Giáo số 305 ngày 15-9-2018

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2219)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2521)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2343)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2658)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2433)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3246)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2408)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2532)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2535)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2191)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3045)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2645)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2703)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2985)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2585)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4083)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3060)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3302)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2285)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2498)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2802)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2996)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2867)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2604)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2627)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3187)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2594)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2382)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2472)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2682)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3264)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2555)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2594)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2046)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2899)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2936)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2700)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2508)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2776)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant