Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cốt Lõi Kinh Kim CangDuy Thức

08 Tháng Mười Hai 201808:57(Xem: 6072)
Cốt Lõi Kinh Kim Cang Và Duy Thức

Cốt Lõi Kinh Kim CangDuy Thức  

Thích Minh Không

Cốt Lõi Kinh Kim Cang Và Duy Thức


Rằm tháng 10 Mậu Tuất..

Kinh kim cangduy thức từ trên 2000 năm nay đã được bàn ngang bàn dọc rất nhiều do đó ngày hôm nay tôi chỉ đưa ra một cái nhìn cá nhân vào cốt lõi cúa 2 môn học thọat nhìn thì tương phản nhưng thật ra bổ túc và ôm ngoàm nhau như âm và dương, có và không. Trước khi đi vào chủ đề, tôi cũng nhấn mạnh và nhắc lại  tính chất bất định  và vô lượng nghĩa của phật pháp : nền tảng là giúp ta tiến triễn trên đường Đạo nhưng cái mà ta cho là chân lý có thể khác nhau tùy theo mỗi người, và ngay cả một con người cũng thay đối cái nhìn qua thời gian qua quá trình tu tập. Chúng ta chỉ là những người mù sờ voi cho đến khi nào mở mắt (giác ngộ) thì mới thấy Chân Lý toàn vẹn.

Cốt lõi của kinh kim cangtâm bình đẵng. Bình đẵng giữa con người với con người, bình đẵng giữa con ngườichúng sinh khác, bình đẵng giữa chúng sinh và chư Phật. Bình đẵng là vì đồng nhất về thể tánh dù rằng khác nhau về tướng trạng và nghiệp thức. Nhưng thực hiện được tâm bình đẵng là thể hiện được tánh không.Nhưng không thể nào hiểu tánh không nếu cứ bám víu vào những cái có ; bám vào những gì gọi là sở đắc dù là vật chất hay tâm linh. Khi nhìn về tánh không nào là tánh không duyên khởi hay chân không diệu hữu vv..thì cũng khó mà sống được tinh thần tánh không. Có thể giản dị hơn khi nói rằng tánh không nói lên cái không nắm bắt được, cái vô sở hữu của mọi pháp từ vật chất tới tâm linh, từ đó phát triễn tâm xả bỏ, thực hiện tinh thần ‘ưng vô sở trụ…Cốt lõi của kinh kim cang nằm ở sự hiểu tứ tướng (hay tứ kiến) : tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả.

Tướng ngã là tướng chấp ngã  ; do tướng chấp ngã nên sản sinh ra chấp nhân tức là người khác, sinh ra chấp chúng sinhtượng trưng cho những không gian ; bị ràng buộc vào một không gian nào đó ;  sinh ra chấp thọ giả là tượng trưng cho thời gian bị ràng buộc trong một thời hạn nhất định. Nói tóm lại vì cái nhân chấp ngã mà sinh ra các quả ; quả chấp ngãý thức phân biệt ta - người và nói rộng ra là ý thức nhị nguyên nhìn nhận những xấu tốt, thiện ác, lợi hại vv…, quả chúng sinhý thức biện biệt này cột chặc và giới hạn vào những không gian của lục đạo luân hồi (25 cảnh giới ), quả thọ giả là quả tượng trưng cho thời gian tức là cũng bị cột chặc vào thời gian mà không thoát được dù ngay cả sinh ra trong cõi trời đời sống có thể tới hàng vạn năm hoặc trong thoáng chốc như vài loài sinh vật…

Như vậy từ sự chấp ngãý thức phân biệt dẫn ta đi lòng vòng hết kiếp này tới kiếp khác, sinh tử tiếp nối.

Cốt lõi của duy thức nhằm ở sự khẵng định ở nơi 8 thức tâm vương ( và cũng có thể hiểu rộng ra là ở mọi tâm thức dù là tâm sở…) được cấu thành do 4 yếu tố : kiến phần, tướng phần, tự chứng phần, chứng tự chứng phần. Kiến phần hay gọi là chủ thể hay gọi là năng. Tướng phần hay gọi là đối tượng hay gọi là sở. Tự chứng phầnchứng tự chứng phầnnghiệp thức và chia ra biệt nghiệp ( cái nghiệp riêng) và cộng nghiệp ( cái nghiệp chung của loài đó hay của nhóm đó). Tám thức tâm vương là nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt, thân , ý, mạt na thức, a lại da thức ( còn gọi là tàng thức).Thí dụ như nhãn thức hình thành qua căn mắt tiềp xúc với sắc trần nhưng vẫn nằm trong vòng kiềm toả của nghiệp chẵng hạn cộng nghiệp là nghiệp loài người ( nhãn thức hình thành giới hạnmột độ xa gần , sáng tối, hay đối tượng sắc của loài người…)  và biệt nghiệp là nghiệp riêng của người đó ( mỗi cá nhânnhãn thức khác nhau nhưng cũng không vượt qua được cái khả năng cuả cộng nghiệp) Trong kinh có diễn tả mắt con người thấy sông là nước trong khi loài ngạ quỷ thấy sông là lửa trong khi loài trời thấy sông là lưu ly, là ngọc quý…Cũng vậy nhĩ thức ở cộng nghiệp loài người, căn nhĩ sẽ chỉ nghe được những âm thanh ở những tần số và décibel nhất địnhbiệt nghiệp là những khả năng riêng cho cá nhân đó. Ở đây tôi cũng nhấn mạnh là nghiệp tác đông không phải chỉ đơn thuầnvật lý mà là toàn bộ tâm thức. Cũng vì vậy mà có người thích loài hoa này trong khi người khác thích loài hoa khác. Sự cảm nhận về chân, thiện, mỹ trong biêt nghiệp đưa đến những cái nhìn khác nhau, những quan niệm khác nhau.Và những thức tâm vương khác cũng như vậy.Đó là cái cộng nghiệp riêng của từng loài và biệt nghiệp riêng của từng cá nhân.               

Cũng cùng một cái nhìn như vậy, trong đại thừa khởi tín luận,ngài Mã Minh đã nói về tam tế : năng, sở, nghiệp…năng tương ưng với kiến phần, sở tương ưng với tướng phần, nghiệp tương ưng với chứng phầnchứng tự chứng phần. Nghiệp mà Mã Minh nói tới được  chia chẻ  thành biệt nghiệp và cộng nghiệp trong duy thức. Trong cái biệt nghiệp còn chia chẻ thành chánh báoy báo. Chánh báo chính là cái thân và tâm của chính mình còn y báo là cái môi trường mà mình sống trong đó. Cộng nghiệp thì cũng có thể nhìn qua nhiều mức độ chẵng hạn cộng nghiệp là loài người ; cộng nghiệp là người VN ; cộng nghiệp là dân chúng cùng sống ở một thành phố nào đó và từ đó tương ưng những biệt nghiệp khác nhau.                                                                                                        

    Khi nói về thập bát giới ; 6 căn ( nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với 6 trần ( sắc, thanh hương, vị, xúc, pháp)  qua 6 thức ( nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) thì 6 thức này hình thành do cộng nghiệp và biệt nghiệp. Và rồi tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời này đều không ra khỏi ‘thập bát giới’ này. Nên hiểu chữ giới trong thập bát giới là cái giới hạn mà ta không thoát ra được khi chưa giác ngộ, khi chưa giải thoát                                                                                                                                                                                                                                                                              

Kinh kim cang là tiền đề để đi vào tánh không : gọi là tìền đề vì bước đầu kinh kim cang bắt đầu bằng thể hiện tánh huyễn ; cái vô thường thoáng chốc ( sát na vô thường) như trong câu : nhất thiết hữu vi pháp, như mộng,huyễn,bào, ảnh ; như lộ diệc như điện ; ưng tác như thị quán ( các pháp hữu vi như mộng,như huyễn,như bọt nước,như sương mai,như điện chớp ; cần phải quán như vậy.). Nhưng trong cái sát na vô thường đó thì luôn luôn có mặt cái thường hằng bất biến là chủ thể. Thường, lạc, ngã, tịnh trong kinh đại bát niết bàn nói lên những tính chất của tính chân như đó.  King kim cang cũng có nói nhiều về tính giả danh theo công thức như cái đó không phải là cái đó nên gọi là cái đó…núi không phải là núi nên gọi là núi vv... Đó là tiến trình : có-không-không-có.                                                                                                       Duy thức thể hiện tánh có, tùng tướng nhập tánh là theo cái tướng mà đi vào cái tánh. Duy thức phân tích những trạng thái của tâm, chỉ rõ những nguyên nhânđiều kiện của sự hình thành và tiêu diệt của từng trạng thái tâm thức. Kim cang hòa nhập với duy thức thể hiện tinh thần vừa là ‘tánh không duyên khởi ‘  vừa là ‘ chân không diệu hữu ‘ Cái diệu hữu cuả duy thức hình thành từ 94 tâm hữu vi đi tới  6  tâm pháp vô vi. Rồi thì nhờ sự tu tập bằng cách tác động trên những chủng tử để chuyển hoá thì từ từ  các thức tâm vương chuyển ra thuần tịnh và từ đó chuyển hoá thành trí. Tiền ngũ thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức) chuyển ra ‘ thành sở tác trí’ . Ý thức chuyển thành ‘diệu quan sát trí. Mạt na thức chuyển thành ‘bình đẵng tánh trí (tâm chấp ngã trở thành vô ngã) A lại da thức chuyển thành ‘đại viên cảnh trí ‘ . Có thể nói tứ trí này là ‘diệu hữu ‘ cuả ‘không’.                                                                                                                                                                                           

Trên đây là vài cái nhìn riêng về cốt lõi của kinh kim cangduy thức. Mong rằng các đạo hữu tự đào sâu và soi rọi theo tinh thần ‘tự đốt đuốc lên mà đi ‘.                                             

 

Khanhtranhoang, 22.11.2018.                                         

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2066)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2216)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1712)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2035)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1740)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1724)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1896)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1908)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1559)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1731)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2073)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1823)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2388)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1716)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1721)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1678)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2125)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1950)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2088)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1630)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2250)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1595)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1760)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1824)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1671)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2409)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2121)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2068)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1873)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2221)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1795)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1919)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2155)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1681)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1937)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1935)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2151)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1927)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1768)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1751)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1759)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1869)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2159)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1712)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1684)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2250)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1780)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2352)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant