Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Người Dịch

21 Tháng Giêng 201917:24(Xem: 4034)
Lời Người Dịch
TRÁI TIM RỘNG MỞ
THỰC TẬP BI MẪN TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Nguyên bản: An Open Heart: Practicing Compassion in Everyday Life

Tác giả
: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Thông dịch: Thupten Jinpa
Biên tập và nhuận sắc: Nicolas Vreeland
Chuyển ngữTuệ Uyển

trai tim rong mo


LỜI NGƯỜI DỊCH

 

Tại sao con người tìm đến tôn giáo?

Bởi vì con người cần những ý tưởng cực lạc, thiên đàng, hay niết bàn.

Tại sao con người cần những ý tưởng cực lạc, thiên đàng, và niết bàn?

 

Bởi vì con người trải nghiệm vô vàn khổ não của cuộc sống cũng như sự ngắn ngủi của đời sống.  Nên con người mong mõi niềm vui cực lạc sống lâu vô cùng, hưởng phúc thiên đàng đời đời hay niết bàn không sanh diệt

 

Càng khổ não con người càng tha thiết mong mõi những ý tưởng ấy và nếu trần gian không khổ não chắc con người cũng không tầm cầu những ý tưởng ấy. 

 

Càng tha thiết mong mõi, niềm tin của con người càng mãnh liệt trong tín ngưỡng.  Nhưng nếu niềm tin không lý trí, đức tin không  hiểu biết con người càng dễ giáo điều, càng giáo điều thì càng mù quáng, càng mù quáng thì càng cuồng tín trong những điều Đạo Phật gọi là kiến thủ tức là tin những tín lý sai lầm, giới cấm thủ tức là giữ những cấm kỵ không chân chánh tổn mình hại người.  Và thay vì tôn giáo trong mục đích đem đến hạnh phúc cho nhân gian thì giáo đồ hiện tại lại làm khổ não cho nhau, giết chóc lẫn nhau nhân danh đức tin tôn giáo trong khi mong chờ niềm vui cực lạc hay hưởng phúc thiên đàng trong tương lai.   Như trong giáo lý của Đạo Phật thì cũng có một thế giới cho những chúng sanh thường sân hận, thù địch và gây chiến đấy là thế giới của loài A tu la.  Như vậy có phải khổ não hiện tại là do thiếu lòng yêu thương chân thật, lòng từ bi chân thành, lòng bao dung chân chánh và sự hiểu biết chân lý dúng đắn hay không?

 

Kinh luận nhà Phật cũng nói rằng những chúng sanh ở các cõi trời vì quá sung sướng nên không nghĩ đến việc tu tập để hoàn toàn giải thoát vì khi hết phúc lại sanh trở lại cõi khổ vì những nghiệp nhân chưa hoàn toàn dứt sạch trong tâm thức.  Do vậy nếu những ý tưởng như "tịnh độ nhân gian" hay "thiên đàng tại thế" được hiện thực thì có lẻ thực tế hơn vì Thiền sư Nhất Hạnh cũng từng nói rằng, "Không có an lạc hiện tại thì đừng hòng có an lạc trong tương lai", như thế thì con người mới thực sự chăm lo cho cuộc sống hạnh phúc hiện tại không tổn mình hại người thì tương lai chắc chắn cũng sẽ là  hạnh phúckhông thật sự như cực lạc hay thiên đàng.  Như vậy con người sẽ không mù quáng hay cuồng tín làm đau đớn cho người và khổ não cho mình để mong hưởng hạnh phúc tương lai chưa đến.

 

Đức Phật từng dạy rằng, đừng tin tưởng lời ta vì lòng tôn kính mà hãy như người thợ kim hoàn, cắt, giũa, nung chảy để thử nghiệm xem có phải vàng thật hay không, những lời dạy của ta cũng như thế nếu qua phân tích cẩn thận thấy thật sự có lợi ích thì mới tin tưởng và làm theo.

 

Đức Phật cũng từng dạy rằng, "tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta".  Cho nên trong một lần thuyết giảng tại chùa Quang Minh, Úc Đại Lợi, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chấp tay lại và nói rằng, "Xin các anh chị em Phật tử của tôi hãy học hỏi hơn nữa".

 

Học hỏi để làm gì?

 

Học để biết "Trước nhất là khoa học Phật Giáo, trên căn bản của khoa học Phật Giáo rồi thì triết lý Phật Giáo phát triển,  như hai chân lý, bản chất vô thường, và duyên khởi tương sinh, những quan điểm triết lý này được phát triển trên căn bản của thực tiển.  Đấy là khoa học Phật Giáo.  Rồi thì điều này có thể thay đổi tâm thức chúng ta, có thể giảm thiểu cảm xúc tàn phá, và cuối cùng có thể hoàn toàn tiêu trừ hoàn toàn những cảm xúc tàn phá.  Đấy là niết bàn, giải thoát, hay cứu độ.

 

Nên trên căn bản của khoa học, triết lý Phật Giáo, nhận thức Phật Giáo phát triển, sau đó theo nhận thức Phật Giáo rồi thì thực tập Phật Pháp.  Do vậy, người Phật tử chân thật phải nên biết triết lý Phật Giáo, khoa học Phật Giáo.  Bằng trái lại việc  thực hành tôn giáo chỉ như tập tục, theo thói quen tín ngưỡng không có  ý nghĩa gì nhiều."

 

Học để biết từ bi là gì, tác động của từ bi đối với con người thế nào, phương pháp để đạt được từ bi, và việc hiện thực từ bi trong đời sống hằng ngày ra sao?

 

Mọi tôn giáo đều nói đến lòng yêu thương rộng lớn, và trong Đạo Phật gọi là từ bi.  Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng không cần phải có một tôn giáo cho tất cả vì mỗi tôn giáo đáp ứng cho tâm tư của một tầng lớp nào đấy.  Nhưng nếu có một tôn giáo cho tất cả, thì đấy chính là từ bi.  Vậy thế nào là từ bi?

 

"Từ năng dữ nhất thiết chúng sanh chi lạc

Bi năng bạt nhất thiết chúng sanh chi khổ ".

 

Tạm dịch :

Lòng thương yêu có khả năng đem đến cho tất cả chúng sanh an vui,

Lòng thương xót có khả năng cứu tất cả chúng sanh thoát khổ.

 

Hay ngắn gọn là ban vui, cứu khổ.  Nhưng làm sao có thể ban vui cứu khổ, có phải chăng đấy chỉ là những đức tính của những bậc thánh nhân, bồ tát và Phật, và phàm phu Phật tử chúng ta chỉ ngưỡng cầu các ngài ban vui cứu khổ cho chúng ta.  Thật sự thì từ bi không chỉ là ý tưởng triết lý, từ bi không chỉ là ngôn ngữtừ bi là một thực tế, là đức tính mà mỗi Phật tử phải đạt đến chứ không chỉ cầu xin, để ban vui cứu khổ cho chính mình, rồi mở rộng ra cho gia đình mình, mở rộng lớn hơn cho toàn xã hội rồi đến tất cả chúng sanhchắc chắn sẽ hưởng sự ban bố từ bi của của những bậc thánh nhân, bồ tát và Phật như cảm ứng đạo giao.

 

Nhưng từ bi nếu chỉ tin tưởng thì cũng chỉ là viễn vông, làm sao có thể ban vui cứu khổ ngay trong phạm vi hạn hẹp nhất.

 

Từ bi trong Đạo Phật không chỉ là ý tưởng, từ bi không chỉ là ngôn ngữtừ bi là một thực tế, từ bi không chỉ là niềm tin, từ bi trong Đạo Phật dựa trên lý trí, lý trí ấy có nền tảng và nền tảng ấy có phương pháp khoa học để đạt đến  vì từ bi cũng được định nghĩa là:

 

- Từ hay từ ái và có nghĩa là  nguyện cho mọi chúng sinh được hạnh phúc và có nguyên nhân của hạnh phúc

 

- Bi hay bi mẫn và có nghĩa là nguyện cho mọi chúng sinh thoát khổ và hết những nguyên nhân của khổ.

 

Trước hết người Phật tử phải phát nguyện như thế làm căn bản rồi từ đấy mới thực tập để đạt được lòng từ bi của Đạo Phật.

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma trong một số bài viết cũng nói rằng, không phải nói đến từ ái hay bi mẫn là chúng ta phải có khả năng để ban vui hay cứu khổ mà trước hết đấy là sự phát nguyện, mong ước của chúng ta cho mọi chúng sinh được có niềm vui và hết khổ.  Quả vậy, nếu chúng ta nghĩ đến ban vui cứu khổ mà khi chúng ta chưa có khả năng thần thông tự tại như những vị Phật hay Bồ tát thì quả là ngoài sức tưởng tượng và chúng ta không thể và không dám nghĩ đến, và chúng ta cảm thấy thối chí.  Nhưng thay vì thế, như lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma, chúng ta trước hết phải có tấm lòng rộng rãi như thế, phải phát nguyện từ ái và bi mẫn nguyện cho mọi người được hết khổ, được có niềm vui, được có nguyên nhân của niềm vui, được hết những nguyên nhân của khổ.  Với lời nguyện ước, mong muốn này chắc chắn ai cũng có thể làm được.

 

Dĩ nhiên nói đến từ bi là nói đến lòng thương yêu không phân biệt kẻ oán, bạn hữu hay người dưng, nhưng thật khó mà nghĩ đến người làm tổn hại chúng ta, người chúng ta không ưa với tâm bình đẳng như vậy, nhưng như Bồ tát Tokmay Sangpo nói, nếu chúng ta không thuần hóa kẻ thù nội tại mà lại muốn thuần hóa kẻ thù ngoại tại thì kẻ oán lại càng tăng, thế nên việc phát lời nguyện ước từ ái và bi mẫn hay nguyện cho mọi người đều khỏi khổ, hết nguyên nhân của khổ, được hạnh phúc và có nguyên nhân của hạnh phúc là cách tốt nhất để rộng mở cõi lòng của chúng ta, thuần hóa kẻ thù nội tại của chúng ta, dù thực tế chúng ta chưa hành động gì cả.

 

Trong những buổi lễ của Phật Giáo, chúng ta thường có một phút nhập từ bi quán, nhưng chỉ một phút thôi và lâu lâu một lần như vậy thì thật khó mà thâm nhập được từ bi và khó mà rộng mở cõi lòng, khó mà thuần hóa kẻ thù nội tại.  Nhưng nếu chúng ta thường xuyên phát nguyện từ ái và bi mẫn, hay luôn luôn giữ lòng từ bi, chắc chắn kẻ thù nội tại sẽ khuất phục trước năng lực của từ bi. Các đạo sư Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, hay Thiền sư Nhất Hạnh thường nói hãy gởi những thông điệp thương yêu hay từ bi vào không gian, năng lực của từ bi của chúng ta, của càng nhiều người sẽ làm dịu "thế gian nóng bức" này, dịu những nổi thù hận trong nghiệp chướng của chúng taPhát nguyện từ ái bi mẫn là thiết thực làm việc này, là thiết thực biểu lộ bản chất của Đạo Phật, đạo từ bi.

 

Thức dậy miệng mĩm cười,

Hăm bốn giờ tinh khôi,

Xin nguyện sống trọn vẹn

Mắt thương nhìn cuộc đời.

 

Quyển "Trái Tim Rộng Mở" nói về những đề tài căn bản để người đọc có một nền tảng về những vấn đề chung quanh chủ đề chính là lòng từ ái,bi mẫn và vị tha sau đó là những phương pháp tổng quát để thực tập nhằm phát huy từ bi. Đây là một trong những quyển sách bán chạy nhất (bestseller) của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

 

Những câu kệ của Tôn Giả Tịch Thiên viết trong tác phẩm "Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ tát" mà Đức Đạt Lai Lạt Ma rất ngưỡng mộ và ngài cho là nguồn động viên cho sức mạnh tâm linh của ngài và đã được ngài thường nhắc lại trong những buổi thuyết giảng và cũng được nhắc lại trong quyển sách này là:

 

Khi không gian còn tồn tại

Chúng sanh còn hiện hữu

Cho đến lúc ấy, con nguyện cũng sẽ vẫn hiện diện

Để xua tan khổ não cho trần thế.

 

Có người chắc sẽ nói, "Ô, thế gian muôn vàn khỗ não mà cứ ở lại để khổ não cùng chúng sanh thì có ích gì?".  Tôi nghĩ lời dạy của ngài Tịch Thiên có nghĩa là, không chỉ giải thoát cho riêng mình, mà hãy là những bậc giác ngộ để ban vui cứu khổ cho tất cả chúng sanh trong không gian vô tậnthời gian vô cùng, của những bậc đầy năng lực của nguyện lực chứ không phải là những kẻ bất lực với nghiệp lực.  Vì có là những bậc giác ngộ thì lòng từ bi mới thật sự có năng lực chuyển hóa cuộc sống con người chúng ta.  Đức Đạt Lai Lạt Ma từng nói rằng, nếu muốn vị kỷ thì hãy vị kỷ một cách thông tuệ, là hãy cứu giúp người thì sẽ có người cứu giúp mình hay tiểu thừa là không làm tổn hại người, và đại thừa là cứu giúp người.  Thiền sư Nhất Hạnh cũng nói là, "Một Đức Bụt thì không đủ" có nghĩa là chúng sanh cần thêm những Đức Phật, vì vô lượng khổ não của vô số chúng sanh cần có vô biên chư Phật thì sự ban vui cứu khổ mới hiệu quả hơn, trước nhất có nghĩa là phải cần có thêm nhiều người phát nguyện thành Phật, phát tâm bồ đề, phát lòng từ bi.  Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng dù người phát nguyện chưa ban vui cứu khổ được ai, nhưng năng lực từ bi cũng đã tác động làm tươi nhuận an lạc chính người ấy trước rồi.  Hãy tưởng tượng ngày càng nhiều người, hay tất cả mọi người đều phát nguyện từ bi thì thế giới này cũng được chuyển hóa vô cùng rồi, chưa nói đến lúc mọi người đều thành Bồ tát hay thành Phật.

 

Kinh Thương Yêu hay Kinh Từ Bi nói rằng, " Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, lòng từ bi không bị bất cứ một cái gì làm ngăn cách, tâm ta không còn vương vấn một chút hờn oán hoặc căm thù. Bất cứ lúc nào, khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, miễn là còn thức, ta nguyện duy trì trong ta chánh niệm từ bi. Nếp sống từ binếp sống cao đẹp nhất. Không lạc vào tà kiến, loại dần ham muốn, sống nếp sống lành mạnh và đạt thành trí giác, hành giả sẽ chắc chắn vượt khỏi tử sinh" thành Phật là kết quả đương nhiên của một người phát tâm bồ đề hay phát nguyện thành Phật.  Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng khi phân tích những điều kiện xa điều kiện gần thì đạt đến Quả Phật là điều kiện ắt có và đủ để thực hiện từ bi một cách trọn vẹn nhất và chúng ta phải cảm thấytrách nhiệm trong việc đạt đến giác ngộ vô thượng vì lợi ích của tất cả chúng sanh.

 

Mong rằng những lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ cho chúng ta những bài học và thực hành thiết thực để từ bi có thể trải rộng làm cuộc sống cá nhân an ổn hơn, gia đình hòa hiệp hơn, nhân gian hạnh phúc hơn, và thế giới hòa bình thật sự.

 

Xin chân thành sám hối nếu những lời chuyển ngữ của Tuệ Uyển  không diễn đạt chân thật nghĩa của Đức Đạt Lai Lạt Ma.  Xin hồi hướng đến tất cả chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.

 

Nam mô A Di Đà Phật

Ẩn Tâm Lộ ngày 28-10-2012

Tuệ Uyển

Thích Từ-Đức

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2066)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2216)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1712)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2034)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1739)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1724)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1896)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1907)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1559)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1731)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2073)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1823)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2388)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1716)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1719)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1677)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2125)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1949)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2087)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1630)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2249)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1595)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1760)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1823)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1671)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2409)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2120)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2068)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1873)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2221)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1794)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1919)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2154)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1681)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1937)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1935)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2151)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1927)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1767)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1749)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1758)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1869)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2159)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1712)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1684)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2250)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1780)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2352)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant