Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật: Người Dẫn Đường

30 Tháng Năm 201909:41(Xem: 5537)
Đức Phật: Người Dẫn Đường
ĐỨC PHẬT: NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG 

Nguyên Cẩn


Đức Phật Người Dẫn Đường

Người đã vạch ra con đường 

Đức Phật đã ra đời cách đây 2.643 năm. Giáo sư Lewis Lancaster nói rằng người phương Tây thoạt tiên xem Đức Phật như một nhân vật huyền thoại. Nhưng khi các nhà khảo cổ tìm ra những địa danh trùng khớp với tiểu sử của Ngài, hay những trụ đá dựng lên từ thời Ashoka Đại đế ghi rõ “Đây là nơi Đức Phật sinh ra”, “Đây là nơi Ngài nhập Niết-bàn”…, ông kết luận, rằng: “Như vậy, với thời gian, việc tập hợp những di tích ấy cho phép các nhà nghiên cứu giả định rằng có một nhân vật lịch sửđời sống gần gũi với những câu chuyện kể trong dân gian lưu truyền qua ba thế hệ vào thời vua Ashoka”. 

Gary Gach, trong tác phẩm của mình viết đại ý rằng, chúng ta nên ca tụng người làm ra ổ bánh mì đầu tiên. Cũng như chúng ta vẫn nhớ ơn anh em Wright đi tiên phong phát minh ra máy bay. Khi họ bước lên chiếc máy bay đầu tiên bay vào một chân trời vô định, họ đã làm được một điều vĩ đại. Và nhân loại vẫn sử dụng cách tính toán siêu phàm của họ về những chuyến bay cho đến hôm nay.

Đọc giáo pháp Đức Phật cũng như bước lên một chiếc máy bay (giả định), ở đó Ngài khuyến khích ta đạt tới sự bình an - tỉnh thức, nâng cao tính thiện và khai mở mọi tiềm lực của đời sống

Gach hỏi rằng bạn đã sẵn sàng gặp con người đã vạch ra hành trình đi đến hạnh phúc bền vững một cách trọn vẹn, không tốn kém, rất “đời thường” chưa?1 Đức Phật nói, Ngài chỉ dạy những gì Ngài có thể thực hiện, và Ngài kêu gọi mọi người cùng thực hành và tự khám phá cũng như nhận thức cho riêng mình. 

Ngài là người hướng dẫn chứ không phải Thượng đế và những ai chờ đợi Thượng đế hay vị giáo sĩ nào bảo ban mình nên biết rằng tự họ có thể khám phá những gì mà trong thâm tâm hay trực giác họ đã biết… Đạo Phật vốn tự do không cưỡng ép ai, không giáo điều, không áp đặt quyền uy buộc ai phải theo. Người dẫn đạo không phải là thần thánh hay Thượng đế. Thế nhưng ngày nay con người vẫn còn mộng du trong ác mộng của chính mình. Ngay cả trong giấc mơ ấy, họ luôn luôn có cơ hội để tỉnh thức

Hãy hướng về Đức Phật trong ngày Đản sanh để hy vọng tìm thấy trong giáo pháp của Người một lối đi cho chúng ta, cho xã hội và cho thời đại, nếu có thể.

Năm nay là một năm đặc biệt vì, ngoài những lời chào mừng về ngày Phật đản PL.2563, còn mang theo thông điệp của Ngày Vesak Liên Hiệp Quốc được tổ chức lần thứ ba tại Việt Nam, với chủ đề chính “Cách tiếp cận Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu và trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững”. 

Lãnh đạo trong tinh thần Bát-nhã 

Thế giới hôm nay đang có nhiều điểm nóng, từ Trung Đông đến Nam Á hay Biển Đông, không kể những kẻ khủng bố đang gieo rắc tai họa ở New Zealand hay Hà Lan. Và nhân loại mong chờ những nhà lãnh đạo sáng suốt lèo lái đất nước mình thoát khỏi hiểm họa chiến tranh có thể xảy ra một thời điểm nào đó khi tham vọng của một vài kẻ bá quyền vượt quá sự tỉnh táo cần thiết

Chúng ta hiểu “Tâm bình thế giới bình”, như kinh Pháp cú nêu rõ “Tâm làm chủ các pháp”. Tất cả mọi việc do tâm tạo ra, tâm làm chủ. Vì vậy, nhận ra tâm mình và làm chủ tâm mình, chúng ta không còn tạo ác nghiệp, thì không còn khổ và không còn sanh tử luân hồi. Nhược bằng khởi tâm tham, muốn chiếm hữu của người khác, muốn đất đai biển cả là của mình, sẽ gây ra phiền não cho bá tánh, kể cả trong nước mình; vì chiến tranh xảy ra, thì nói như các sử gia: “Trong chiến tranh có kẻ thắng người thua, nhưng nhân dân thì chắc chắn thua”, bởi lẽ sao tránh được cảnh nhà tan cửa nát, đầu rơi máu chảy.

Quan điểm vì hòa bình bền vững buộc người lãnh đạo phải biết tu dưỡng thắng nhân. Nghĩa là phải biết “giới, định” để phát sinh “tuệ” hay chính là Bát-nhã, giúp họ minh triết trong giải quyết rốt ráo mọi vấn đề. “Đức Phật không bao giờ xem hòa bình như là một quà tặng từ đâu đến. Quan điểm của Ngài, hòa bình là một ý chí quyết liệt, một cuộc đấu tranh kiên cường, một vấn đề tự giáo dục và tự huấn luyện, để dân chúng có thể yêu quý hòa bình như là một vật báu cần phải thực hiện ngay từ bây giờ, trên quả đất này”2.

Ngược dòng lịch sử, các vua Lý-Trần ở Việt Nam đã chọn con đường tích cực nhập thế khi dấn thân vào các cuộc chiến đấu vì độc lập, gìn giữ hòa bình cho tổ quốc. Họ sống với tâm “Bát-nhã”. Cố Ni sư Thích nữ Trí Hải từng giảng: “Bát-nhã là để mà sống, hành động, thể hiện, chứ không phải để nói suông. Nói mà không làm thì Bát-nhã trở thành huyễn hóa như sương chớp ảo ảnh, hay như người đói mà chỉ bàn về thức ăn, thì không thể no được. Miệng nói Bát-nhã mà vẫn sống và xử sự một cách ngu si, mê muội, thì không phải Bát-nhã… Sống Bát-nhã thì tâm không thể tán loạn, đó là Định. Sống Bát-nhã tâm không ngu si, đó là Tuệ”3

Cho nên mới có người con Phật họ Lý được dân chúng ở nước Đạ Năng miền Tây Bắc Việt suy tôn lên lãnh đạo cuộc cách mệnh dân tộc đánh đuổi quân nhà Lương, xây dựng quốc gia độc lập hơn 30 năm. Đấy là tấm gương đem đạo vào đời phụng sự dân tộc đặc biệt của Phật giáo Việt Nam lần đầu tiên vậy”4. Trong tinh thần đó, Quốc sư Phù Vân đáp lời vua Thái Tông nhà Trần tìm vào núi cầu Phật rằng: “Núi vốn không có Phật, Phật chỉ tồn tại nơi bản tâm mình. Bản tâm lắng trong mà biết, ấy gọi là Phật - thật, nếu bệ hạ giác ngộ được cái bản tâm ấy thì thành Phật liền đây, khỏi khổ sở tìm cầu bên ngoài tâm vậy...”.

Quốc sư khuyên nhà vua: “Phàm kẻ làm vua lấy ý muốn thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy cái tâm thiên hạ làm cái tâm mình”. Vua Trần Thái Tông đã nghe theo lời dạy ấy để trở về hành động phụng sự dân tộc vào sinh ra tử suốt hơn 10 năm, để rồi sau khi từ giã ngai vàng, giác ngộ rằng tâm không chấp vào đâu, cứ vô cầu mà hành động “Ưng vô sở trụ…” Đấy là tinh thần Thiền học. Sau này nhiều thế kỷ, tinh thần của Gandhi trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Ấn Độ cũng thế khi ông hành động vô cầu để tiêu trừ cái ngã riêng tư đến chỗ Không “Je me réduis à zéro” vậy.

Lãnh đạo hướng đến xã hội bền vững 

Xã hội vốn mang nghĩa hài hòa. Với Tây phương là société, society, từ tiếng La-tinh socius, có nghĩa bạn cùng sống, bạn đồng hành (companion).

Vậy thì xã hội muốn bền vững phải hài hòa. Trước hết, là sự hài hòa trong từng bộ môn. Chẳng hạn kinh tế phải tạo ra sự hài hòa trong chính nó: hài hòa giữa thành thị với nông thôn, hài hòa giữa giàu và nghèo, hài hòa với môi trường sinh thái, với địa lý tự nhiên, với tài nguyên… Hài hòa được như thế tức là kinh tế phát triển bền vững

Vậy lãnh đạo phải tốt và hiệu quả mới có xã hội hài hòa, Đức Phật từng dạy rằng khi người lãnh đạo chính phủ tham nhũng và bất công thì xứ sở trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Ngài chống lại sự tham nhũng và đã dạy rằng chính phủ phải biết quản trị dựa trên các nguyên tắc nhân ái.

Ngài nói: “Khi người lãnh đạo xứ sở có tính công bình và thiện ái thì triều đình có tính công bình và thiện ái. Khi triều đình có tính công bình và thiện ái thì các quan chức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức có tính công bình và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái. Khi các cán bộ hạ tầng có tính công bình và thiện ái thì người dân có tính công bình và thiện ái”5.

Trong kinh Bổn sanh (Jakata), Đức Phật có đưa ra 10 nguyên tắc của một chính quyền tốt, gọi là “Thập vương pháp” (Dasa Raja Dhamma). Mười nguyên tắc này vẫn có thể áp dụng trong thời đại ngày nay cho bất cứ một chính quyền nào, để quản trị xứ sở một cách hài hòa. Đó là: Phải cởi mở và không ích kỷ; Duy trì đạo đức cao; Sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ cho an sinh của dân chúng; Phải thành thật và ngay thẳng; Phải dịu dàng và giàu lòng nhân ái; Phải sống giản dị để làm gương cho dân chúng; Phải vượt lên trên mọi hận thù; Biết áp dụng tinh thần bất bạo động; Biết nhẫn nại; Tôn trọng ý kiến dân chúng, và biết phát triển sự hòa bình và hòa hợp.

Lời dạy của Đức Phật về các bổn phận đạo đức của vua chúa để sử dụng công quyền, bảo đảm an sinh người dân, đã giúp cho vua A Dục (Ashoka), vào thế kỷ III trước Tây lịch, cai trị đất nước của ông. Ông quảng bá chính sách bất bạo động đến các vương quốc lân cận, cam đoan các thiện ý của ông, và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền bá thông điệp hòa bình và bất bạo động. Vị vua này cổ võ sự ứng dụng của các nguyên tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từ bi, bất bạo động, nhân từ, không hoang phí, không chiếm đoạt, và không gây sát hại cho mọi loài vật. Ông khuyến khích tự do tôn giáobình đẳng tương kính giữa mọi đức tin. Ông thường du hành thuyết giảng đạo pháp đến người dân ở tận thôn quê. Ông thiết lập các công trình công cộng như bệnh xá, cung cấp thuốc men, trồng cây gây rừng, đào giếng, các công trình thủy lợi, và nhà tạm trú. Ông cũng đặc biệt ngăn cấm việc đối xử tàn ác với các loài thú vật

Do đó, nhiều học giả xem Đức Phật là một nhà cải cách xã hội vì Ngài đã lên án hệ thống giai cấpcông nhận quyền bình đẳng của con người. Ngài dạy rằng xã hội phải được điều hành trên trí tuệlòng từ bi, chứ không dựa vào lòng tham lam và si muội. Lòng từ bi nếu khôngtrí tuệ trở thành một thứ tình cảm mù quáng, trái lại trí tuệ lẻ loi sẽ không thể là ánh sáng mát lành vì sự kết hợp cả hai giống như sự hòa hợp giữa con tim và khối óc. Cho nên chúng ta xác nhận tình thương vô biêntri giác vô lượng bao giờ cũng là nòng cốt cho việc chuyển mình của xã hội, tôn giáo của Đức Phật, mà nguyên nhân chính là hiện tượng bất công xã hộiđộc quyền tôn giáo

Giảm bớt sự phân hóa giàu - nghèo 

Một báo cáo của Oxfam năm 2017 cho biết, Việt Nam có 210 người siêu giàu (tài sản ròng trên 30 triệu đô-la Mỹ), chiếm 12% GDP cả nước, và con số này sẽ tăng lên 403 vào năm 2025. Báo cáo này cũng ví von rằng người giàu nhất Việt Nam có thu nhập một ngày bằng 10 năm thu nhập của người nghèo nhất, và với tài sản này, có thể đưa toàn bộ 13 triệu người nghèo thoát nghèo ngay tức khắc.

Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) cho thấy rằng khoảng cách về thu nhập giữa nhóm giàu với bốn nhóm còn lại (nghèo, cận nghèo, trung bình, cận giàu) đã tăng nhanh trong giai đoạn 2004-2014, tạo ra khoảng cách ngày càng lớn về thu nhập. 

Chúng ta hiểu rằng hố ngăn cách giàu - nghèo là vấn nạn chung của các nước tăng trưởng nhanh. Trong cuốn sách Tư bản trong thế kỷ XXI - Capital in the Twenty-First Century của Thomas Piketty gây tiếng vang năm 2014, ông phân vân liệu rằng động cơ của việc tích lũy tư bản tư nhân sẽ không tránh khỏi việc tập trung vào tay một thiểu số như Marx hình dung vào thế kỷ XIX hay việc cân bằng các nguồn lực, sự cạnh tranh, và tiến bộ công nghệ sẽ đưa thế giới đến một giai đoạn phát triển, giảm bớt bất bình đẳnghòa hợp hơn giữa các giai cấp như Simon Kuznets quan niệm trong thế kỷ XX? Làm thế nào để tránh tình trạng “bình quân mỗi người một con gà, nhưng một người có chín, chín người có một”. Vì bất bình đẳng thu nhập sẽ dẫn đến các vấn đề của xã hội như tỷ lệ thất nghiệp tăng, tỷ lệ tội phạm tăng, năng suất lao động bình quân giảm…

Vé vào thế giới hạnh phúc trong tay chúng ta 

Chúng ta không mong chờ vào ai đó, dù là bậc tu hành đức cao vọng trọng hay đấng giáo chủ nào phân phát cho chúng ta. Vé đi vào thế giới an lạc, hạnh phúc nằm trong tay mỗi người, vì hạnh phúc không phải ở bên ngoài.

Có người đã nói: “Giáo thuyết của Đức Phật không dựa trên một ‘triết lý chính trị’ nào cả. Giáo thuyết này không khuyến khích con người đi vào con đường hành lạc vật chất. Giáo thuyết đó vạch ra con đường đưa đến giải thoát tối hậu. Nói một cách khác, mục tiêu tối hậu của giáo thuyết ấy là đoạn diệt lòng tham ái vốn đã cột chặt con người trong vòng trầm luân, khổ ải”. Kinh Pháp cú (kệ 75) đã tóm tắt: “Con đường đưa đến thủ đắc vật chất là một con đường, còn con đường đưa đến Niết-bàn là một con đường khác”6.

Và đấy chính là trung đạo - con đường nhân bản. Trung đạocon đường để phục vụ, để dẫn dắt con người hướng thượng. Nếu có một xã hội mà trong đó người ta không những ít bị chướng ngại mà lại còn được giúp cho để tiến lên trong chính đạo, thì phải là một xã hội xây dựng trên căn bản trung đạo. Nó cũng là ước mơ muôn đời của nhân loại. Nhưng rất tiếc, việc thực hiện ở nhiều quốc gia phát triển như Nga, Ý, Pháp, thậm chí Mỹ vẫn chỉ là ước mơ, dù trong thực tế đã có một số nước Bắc Âu hay Nhật Bản đang tiệm cận “con đường” ấy, về phương diện an sinh xã hội và điều hòa kinh tế.

Cần phải có tiếng nói chung giữa giai cấp lãnh đạo với dân chúng thuộc bất kỳ sắc tộc, tôn giáo nào trong một mục tiêu chung: xã hội hài hòa cả Thiên - Địa - Nhân. Đó là cách tiếp cận và là giải pháp của Phật giáo trong tinh thần Ngày Vesak Liên Hiệp Quốc.

Hãy đi vào con đường đã vạch ra của Đức Phật để thấy Ngài đang Đản sinh ngay giây phút này, trong mỗi chúng ta! 

Nguyên Cẩn

1 Gary Gach - (2009) The Complete Idiot’s Guide to Buddhism - Alpha, Penguin Group, (USA)
2  Thích Minh Châu. ( 1995) Những lời Đức Phật dạy về hòa bình và giá trị con người. VNCPHVN 
3  Thích nữ Trí Hải - Tìm hiểu kinh Kim cương
4  Nguyễn Đăng Thục - “Tinh thần Thiền học Việt Nam”. Tập san Vạn Hạnh số 23, 1965
5  Tăng chi bộ kinh
6  Gems of Buddhist Wisdom - Bình Anson trích dịch
 (Giác Ngộ Online)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3142)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3642)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3255)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3325)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2925)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3395)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3722)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3557)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3562)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2882)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3551)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3069)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3598)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3395)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3378)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3820)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3889)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3261)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3599)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3295)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3125)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3171)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4573)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3546)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3096)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4433)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3354)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3946)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4503)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3775)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3242)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3498)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3069)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3279)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3759)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3750)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3320)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3197)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3178)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3110)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3525)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3372)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3346)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3439)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3917)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3388)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3745)
Thật là một thảm họa khi tôi dự khóa tu thiền lần đầu tiên. Lưng tôi yếu sau nhiều năm ngồi gù lưng trước máy tính và ...
(Xem: 3399)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3449)
Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian,
(Xem: 4423)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant