Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phép An Thân

07 Tháng Mười 202120:11(Xem: 4488)
Phép An Thân
PHÉP AN THÂN   

Lê Huy Trứ

hinh phat
 
Nhân sinh tham ái,
Dong ruổi mong cầu.
Nghiệp nơi tâm thức,
Luân hồi khổ đau.
(Lê Huy Trứ)
 
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
 
Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.”
 
Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.]
 
Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ.
 
Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
 
Không phải chỉ là những cảm thụ khó chịu của nhục thể mới là Khổ. Khổ dùng để chỉ tất cả mọi hiện tượng vật chấttâm thức, xuất phát từ Ngũ Uẩn, chịu dưới quy luật của sự thay đổi và biến hoại của vũ trụ.
 
Như thế, tất cả những điều an lạc đang có cũng là khổ vì chúng cũng sẽ ra đi.  
 
Khổ xuất phát từ chấp Ái (sa. tṛṣṇā) mà con đường thoát khổ là Bát Chính Đạo.
 
Tất cả những phân tích rất chi tiết, đầy triết lý cao siêu, và thể theo phương thức khoa học bởi Phật Giáo qua một kiếp nhân sinh khổ ở trên chỉ cần tóm tắc trong tám chữ, nguyên nhân chính yếu, “cầu không được khổ; cầu được cũng khổ.”
 
Thoạt sinh ra, thì đà khóc chóe,
Đời có vui sao chẳng cười khì?
(Nguyễn Công Trứ)
 
*
 
Trắng răng đến kẻ bạc đầu,
Đều mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
(Ôn Như Hầu)
 
Có nhiều người chỉ mong cầu được yên thân mà sống qua ngày chứ không dám vọng cầu nhưng rồi những trở ngại, cái khó, cái khổ đau vẫn ùn ùn đeo đẳng lấy họ. Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai. Theo Phật Giáo, cầu an cũng là vọng cầu, không cầu cũng là cầu, khác xa với vô cầu. 
 
Ngạn ngữ có câu: Ghét của nào trời trao của nấy.
 
Cầu cái mình thích thì không dễ có nhưng cái ghét dù không cầu nó cũng lăn xả vào thân. Chưa thấy ai giải thích ổn thỏa những khổ nạn nầy. Chúng ta thường được khuyên nhủ: Nên chấp thuận trở ngại thì thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại. Thay vì tàn nhẫn nói thẳng: ráng mà chịu, chấp nhận trở ngại rồi đời sẽ qua, không qua thì chết phức đi cho hết khổ.  
 
Bill Gates thành thật khuyên những kẻ không giàu có thành công như ông ta: Đời bất công; phải ráng quen mà sống với nó.
 
"Nhân quả không nợ chúng ta thứ gì, cho nên xin đừng oán trách nó."
 
Lời khuyên thông thường mà chúng ta thường nghe: Chúng ta nên nhìn xuống để cảm nhận hạnh phúc vì có biết bao nhiêu người khác không bằng mình. 
 
Lúc đó, chúng ta sẽ phát tâm từ bi bố thí, cứu người, giúp đời, tạo phước báu. 
 
Vì nếu chúng ta nhìn lên sẽ thấy có biết bao nhiêu người hơn mình, cho nên không cảm nhận được hạnh phúc.
 
Nguyễn Công Trứ tả về cái nhàn, “Tri túc tiện túc hà thời túc. Tri nhàn tiện nhàn hà thời nhàn.” 
 
Biết đủ là đủ, biết nhàn là nhàn. 
 
Đối với người phàm tục thì nên nhớ ngạn ngữ có câu, “Biết đủ thường vui, hay nhịn tự an. Người biết đủ nằm dưới đất cũng như ở thiên đường. Người không biết đủ tuy ở chốn thiên đường mà như ở địa ngục.” 
 
Đại khái, khi tâm cảm thấy đủ, lòng biết đủ thì chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc
 
Tuy nhiên, nhưng danh ngôn đó đối với đa số chúng ta cũng như khi đang đau thì lương y cho thuốc an thần (pain medication) cho bớt đau, nhất là lúc họa vô đơn chí, chứ chả thật sự cứu giúp được gì được cho bệnh nhân trong cơn ngặt nghèo, nguy nan, và khốn cùng dồn dập. 
 
Ai cũng nói được, nhất là để tạm khuyên nạn nhân đang đau khổ mà chính mình cũng chả làm gì được cho họ.
 
Lời nói không mất tiền mua nhưng nó chỉ là ‘cảm nhận’ rất tâm lý.  
 
Chưa có ai khuyên: Thử cầu khó khăn, cầu trở ngại xem. 
 
Có thể cũng không được?
 
Mong cầu mau chết, cầu khổ đau, cầu nghèo nàn cũng không dễ gì mà được. Số chưa chết, nghiệp chưa tận thì dù muốn chết cũng không chết được; đang an tâm tự tại dù cầu khổ, khổ cũng không đến liền; đang giàu có dù có cầu nghèo cũng không một sớm một chiều mà nghèo mạt rệp được. 
 
Cho nên, đôi khi thất vọng vì cầu bất đắc cũng không đến nổi quá tệ như ta tưởng.
 
Can đảmdũng cảm hơn, nếu cầu trở ngại không được thì đi tìm kiếm nó trước để mà đối phó thay vì chờ nó đến với mình như Lý Tiểu Long từng nói ... trên lý thuyết
 
Đây có thể là một phương thức hữu hiệu để ngăn ngừa bệnh khổ đau? 
 
Nhưng có mấy ai muốn tập sống khắc khổ, phòng bệnh khổ đau, bằng cách đi tìm trở ngại, xui xẻo, khốn nạn bao giờ?
 
Trong bài thơ Vịnh Cây Thông, Nguyễn Công Trứ đã từng đắng cay với cuộc sống nghèo khổ, thăng trầm hoạn lộ nên than,
 
Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo.” 
 
Nếu chán làm người, mong cầu kiếp sau được làm cây thông thì phải gieo nhân ‘quả thông thiện hay ác’ gì để được gặt quả làm cây thông? Mà trước khi được làm cây thông thì phải cầu chết trước đã. 
 
Uy Viễn Tướng Công còn nói: Không công danh thà mục nát với cỏ cây
 
Thử thực tập thiền định về cái chết của mình, thử tưởng tượng là mình đang chết hay nghĩ đến ngày mai mình sẽ chết, thời gian còn lại, mình nên làm những điều gì trước khi chết – lo sợ khổ đau, cái gì mang theo, cái gì phải để lại? 
 
Thử tập chết mổi ngày, chết trong lòng, mục nát ... một tí, để xem thử cái cầu bất đắc này khổ tới đâu, quan trọng tới cở nào? 
 
Có thể đây là một đáp số tạm thời để giải quyết khổ đau ập đến bất ngờ mà ít ai đã thử nghiệm?
 
Làm chủ được ngoại cảnh rất khó, làm chủ chính mình còn khó hơn. 
 
Cái khó ít còn đối phó không nổi thì mong gì đối phó nổi cái khó hơn? 
 
Tuy nhiên, chúng ta không nên quá yếm thế, quá thất vọng mà ảnh hưởng đến sức khỏetinh thần một cách vô ích
 
Chúng ta phải có hy vọng để mà sống, quăng bỏ gánh lo để bớt khổ đau.
Sự lai tắc ứng, sự khứ tắc tĩnh.
(Việc tới thì ứng phó, việc đi thì điềm tĩnh.)
 
Trong Kinh Đạt Bát Niết BànĐức Thế Tôn răn dạy, “Các pháp hữu vivô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật.” 
 
Muốn mong cầu để đạt được tâm thân an lạc, điều tiên quyết là phải kiên tâm hành trì để có được tha lực thâm hậu, phải có ý thức quán chiếu rằng vạn vật lẫn Pháp tướng là do duyên giả, duyên hợp rồi duyên tan như điện như ảnh. Còn dong ruổi mong cầu, còn bám víu vào ngũ dục, còn mong sở trụ vào vô thường của duyên giả thì càng trầm luân trong biển khổ đau. 
 
Thân ngũ uẩn chỉ là phù vân tụ tán
Hợp rồi tan trong vũ trụ bao la
Sự diệt sinh, sinh diệt vô cùng
hiện hữu với thời gian vô tận…
(Huyền Giác Thiền Sư)
 
Nên tịnh tâm để thấy rằng:
 
“Tịnh tâm quán niệm kiếp vô thường
Thân người giả tạm ví hạt sương
Kiếp người chỉ sống trong hơi thở
Thức tỉnh tu tâm, khỏi đau thương…”
Hay,
 
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt thu qua rụng rồi
Sá chi suy thịnh việc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
(Sư Vạn Hạnh)
 
Nên ‘tri kỷ, tri bĩ’ (biết đủ là đủ) để được thân tâm an lạc.
 
“Bước đi giữa chốn hồng trần
Tiền tài, danh vọng phù vân ở đời
Ví như sóng biển ngoài khơi
Hôn vào bãi cát, hợp rồi lại tan
Bao năm gói mỏi lang thang
Nay dừng chân nghỉ nhẹ nhàng an vui”.
 
Vậy thì,
 
Hãy lái thuyền “Từ” xa cõi mộng,
Quay về bến Giác để thong dong.
Quán pháp vô thường do duyên khởi,
Tài sắc đam mê, rối cả lòng.
(Trí Giải)
 
 
Cho nên,
Nhậm vận thịnh suy, bình tỉnh mà run.
 
 
Nếu quá tuyệt vọng khổ đau thì cứ nguyện cầu, cứ đọc kinh, đọc thần chú, cúng tế, bói toán, rồi thì cứ đấm ngực than trời trách đất cũng không sao miễn là những hành động này làm cho mình tạm an tâm để có hy vọng mà vươn lên may ra hết khổ? 
 
Đây cũng là một phản ứng tự nhiên của con người, là bản năng sinh tồn để tự làm giảm đi áp lực tâm thần lẫn thể xác (stress relieved mechanism.) 
 
Đôi khi dị đoan mê tín mà không hại mình, hại người lẫn hại vật chỉ tiền mất tật mang, hay phước thầy may chủ cũng không đến nổi quá tệ
 
Đời khổ là cái chắc nhưng đau là sự lựa chọn. (Suffering is certain but pain is optional.)
 
Đây là câu trả lời cuối cùng mà tôi trì được ý vì tìm đọc nơi không có chữ (vô tự) trong kinh điển Phật Giáo Đại Thừa: thiện ác, xấu tốt, trúng sai, sướng khổ, thương ghét chỉ là nhị nguyên, chỉ ứng dụng cho con người vô minh chứ nó không phải là phương trình khoa học của nhân quả (cause and effect.) 
 
Những lý luận nhị nguyên này không ứng dụng cho tất cả chúng sinh trong vũ trụ. Chỉ có con người suy luận nhị nguyên, đặt ra luật lệ thưởng phạt rồi thì áp dụng những dữ kiện sai lầm này vào công thức nhân quả cho nên khi giải, ra đáp số sai đưa đến kết quả trật. Vũ trụ, thiên nhiên tự nó không thiện không ác, không xấu không tốt, không trúng không sai, không sướng không khổ, không thương không ghét.
 
Vũ trụthiên nhiên (mother nature) không biết những điều nhị nguyên đó. Khi thiên tai, bệnh dịch ̣đến thì chúng sinh chết, không phải vì thiên nhiên vui buồn hay phẫn nộ, thưởng thiện hay phạt ác. Dù chúng sinh có chết hàng triệu hay chết hết, bị diệt chủng như khủng long, cũng không bận tâm thiên nhiên, nếu thiên nhiên có tâm. 
 
Tuy nhiên, những dữ kiện nhân duyên có thể phỏng đoángiải thích được khi nào thiên nhiên tới hỏi thăm sức khoẻ lẫn mạng sống của chúng ta bởi những phương tiện của khoa học hiện đại. Như đã nói ở trên, thiên nhiênvũ trụ không biết may mắn, giàu nghèo, yếu khoẻ, sướng khổ, ái ố, vô minh, ngu muội, thiện ác, trí tuệ, lẫn giác ngộ của con người là gì cho nên không thể cho con người những cái thứ rác rưới đó được.
 
Tuy luật nhân quả, lý nhân duyên là luật của vũ trụ nhưng thiện ác là luật phân biệt của con người. Vũ trụ không biết những điều luật mà con người tự đặt ra cho chính mình.
 
Cho nên, ‘gieo nhân gặt quả’ hay có thể là ‘gieo gió gặt bảo’ (theo nghĩa đen) nhưng không hẳn là ‘ác dã ác báo’ mà có thể ‘ác dã thiện báo’ hay cũng có thể ‘thiện dã ác báo.’ 
 
Tùy theo kết quả và nhân duyêncon người gặt được dù muốn hay không muốn.
 
Vấn đề là làm sao mong cầu đúng cách? 
 
Lục Tổ Huệ Năng đã nói: Tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng
 
Lục tổ Huệ Năng dạy thêm, "Pháp này phải đến trong tánh Phật mà cầu, chớ hướng ngoài thân mà cầu, tự không có bổn tâm. Phải tự thấy bổn tâm, mê thì làm chúng sinh còn giác tức là Phật."
 
Cho nên, tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩacông danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được. 
 
Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Tâm của mình rất thanh tịnh, chẳng chút mong cầu, công đức phước báo này là không có hạn lượng.
 
Thế tại sao chúng tatrong đời sống thường ngày, vẫn có rất nhiều những chuyện bất như ý vậy? 
 
Từ những sự thật này mà quan sát, thì chúng ta có thể tỉnh ngộ ra thôi, do thời gian tu tích công đức của chúng ta quá ngắn, còn thời gian tùy thuận theo phiền não tập khí quá dài.
 
Cũng theo Hòa Thượng Tịnh Không: Phải hiểu được cái đạo lý mong cầu, phải biết được cái phương pháp tìm cầu. Phải như lý như pháp mà cầu, thì sẽ cầu được. 
 
Quan trọng nhất của cầu là phải dùng tâm (chân không hư vọng,) thành (một niệm không sanh) để quán thông không gian duy thứ.
 
Tất cả pháp giới đều ở trong tâm, tự trong nội tâm của mỗi người vốn đã đầy đủ, nếu khéo vận dụng công phu tu hành chúng ta sẽ có tất cả mà không mong cầu ai ban cho
 
Chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được giá trị của tâm linh. Cho nên, cầu may mắn được may mắn, cầu phú quý được phú quý, cầu nam nữ được nam nữ, cầu hạnh phúc được hạnh phúc, cầu thông minh được thông minh, cầu trường thọ được trường thọ nhưng tất cả điều mong ước nầy chẳng qua chỉ là ảo tưởng vô thường từ ngũ uẩn mà thành vật chất, và tâm linh
 
Kinh văn có viết: Nhược bất phản cung nội tỉnh, nhi đồ hướng ngoại trì cầu, tắc cầu chi hữu đạo, nhi đắc chi hữu mệnh hĩ, nội ngoại song thất, cố vô ích
 
Nếu không hướng nội phản tỉnh mà chỉ biết hướng ngoại tìm cầu, thì cách cầu như vậy chỉ đạt được những cái trong số mệnh vốn có mà thôi, trong ngoài đều mất, cho nên vô ích vậy.
 
Trong kinh điển Đại Thừa cũng đã có nói như trên: cầu gì được nấy là ý như vậy chứ không phải chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ vọng ngôn, nói láo lừa bịp để dụ chúng ta theo đạo Phật
 
Tuy nhiên, tham cầu, vọng cầu, chạy theo vật chất hiện hữu thì càng thất vọng, càng đau khổ vì cầu bất đắc làm chúng ta càng ngu muội, càng mê tín dị đoan, lạy lục van xin, kém trí tuệ, và mất nhân cách. 
 
The more we value things, the less we value ourselves.” Bruce Lee
 
“Đừng mong cầu một cuộc sống dễ dàng, hãy mong cầu có sức mạnh để chịu đựng những khó khăn.” Lý Tiểu Long
 
Do not pray for an easy life, pray for the strength to endure a difficult one.” Bruce Lee
 
Sức mạnh ở đây không hẳn chỉ là những sức mạnh vật lý, sức mạnh thể chất, nội lực, mà còn là sức mạnh về mặt tinh thầntâm linh.
 
Nếu mong cầu đúng cách, vũ trụ sẽ cho ta tất cả những gì chúng ta mong muốn sau khi chúng ta quét sạch hết những cái quả rác rưới ở trên. 
 
Trong bài thuyết giảng Upanishad:
 
Trong tĩnh lặng, hãy cầu khẩn Nó,
Nó là tất cả, suối nguồn xuất phát,
Nó là tất cả, nơi chốn trở về,
Nó là tất cả, trong đó ta thở.
 
*
 
Cầu chư kỷ, bất cầu chư nhân,
Cầu nội, bất cầu ngoại.
 
(Cầu ở mình, chớ cầu ở người;
Tìm ở trong, chớ tìm ở ngoài.)
 
Bên trong, niệm niệm phải tỏ ngộ, phải sáng suốt, phải hướng về Tâm Bồ Đề. Niệm niệm không xa rời tự tâm, niệm niệm đều thể hội nguồn tâm của mình, đều biết rõ bản thể của tự tâm; và tuyệt nhiên không truy cầu, tìm kiếm bên ngoài.
 
Những dẫn chứng kể trên, nhắc nhở chúng ta về tha lực của số mệnh khác với tự lực của tâm tánh.  
 
Các cao nhân, và kinh điển cũng còn đề cập đến phương pháp cải tạo nghiệp quả (vận mệnh.) Trong đó, chúng ta nhất định phải biết tập tục, lầm lẫn của bản thân, chân thật phản tỉnh, tìm cho ra căn nguyên của chúng để xoay chuyển thế cơ, và tạo nên thời thế cho mình, cho người.
 
Bởi vì, đa số con người suốt đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối.
 
Mà Tâm phan duyên là tên lừa đảo, bịp bợm lớn nhất, người khác có thể dối bạn nhất thời, nhưng Tâm địa gian trá lại gạt bạn, và làm cho bạn vô minh, chấp ngã suốt đời.
 
Lão Tử nói rằng:
 
Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vi ngô hữu thân;
Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?
 
Dịch là:
Ta có họa lớn vì có thân này,
Thân ta chẳng có thì họa sao còn?
 
Ta có đau khổ vì cứ khư khư chấp có cái tấm nhục thân ngũ uẩn này.  Không có cái thân vô thường, cái ngã vô minh, cái lòng tham sân si này thì họa khổ đau sở trụ được ở đâu?
 
Trong Liên Hoa hóa sanh,
 
Sự đáo vô tâm giai khả lạc,
Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao.
*
Chẳng bận tâm thì lòng an vui,
Người vô cầu là bật cao thượng. 
 
Được như thế thì dù vô cầu cũng tự nhiên sẽ đạt được vô lượng công đức, thành quả rất lớn lao. 
 
Tự tại giữa dòng khổ đau,
Ung dung trong vòng ràng buộc.
(Lê Huy Trứ)
 
Cho nên, chỉ cần tự giác thì tâm an.  Tâm an thì thân an.  Thân an thì tất cả thiên hạ chung quanh chúng ta cũng sẽ bình an.
 
Điều phục lấy Tâm được xem nhưphương châm tu dưỡng, và là mục đích chủ yếu của Phật Giáo.
 
Tóm lại, bí quyết của phép an thân là bình tâm, khi tâm bình thì thế giới cũng bình theo.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3614)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3225)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3299)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2899)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3376)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3708)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3530)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3518)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2857)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3536)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3050)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3569)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3375)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3363)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3788)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3871)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3251)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3585)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3275)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3111)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3134)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4542)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3528)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3077)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4411)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3344)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3924)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 3750)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3187)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3458)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3055)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3253)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3723)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3723)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3294)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3177)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3153)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3090)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3507)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3344)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3323)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3386)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3862)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3372)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3723)
Thật là một thảm họa khi tôi dự khóa tu thiền lần đầu tiên. Lưng tôi yếu sau nhiều năm ngồi gù lưng trước máy tính và ...
(Xem: 3383)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3430)
Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian,
(Xem: 4402)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
(Xem: 3419)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên.
(Xem: 4426)
Ấn Độ có nhân vật huyền thoại là Duy-ma-cật; Trung Quốccư sĩ Bàng Uẩn; Việt Nam có Thượng Sỹ Tuệ Trung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant