Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sống Với Sanh Tử

03 Tháng Chín 201916:22(Xem: 4983)
Sống Với Sanh Tử
SỐNG VỚI SANH TỬ

Nguyễn Thế Đăng


Sống Với Sanh Tử

Sở dĩ có các cõi và có các chúng sanh trong các cõi đó là vì nghiệp. Nghiệp là hành động, tức là hành động thuộc thân, khẩu, tâm của chúng sanh. Nghiệp khởi từ một cái thấy sai lầm, “vọng thấy”, “vọng phân biệt”. Vốn không có tự tánh mà thấy lầm là có tự tánh; không chỗ có - vô sở hữu - mà thấy lầm ra có thật; bất khả đắc mà thấy lầm có được và có mất.

Như mây hiện hình sắc
Trong ấy không có thật
Làm cho người vô trí
Nơi ấy sanh mê lầm.
Nơi loài súc sanh kia
Thọ lấy các thứ thân
Như mây trong hư không
Hiện ra các sắc tượng.
Biết rõ nghiệp như huyễn
Chẳng sanh lòng mê lầm
Tướng ấy vốn tịch tịnh
súc sanh tam-muội.


Muốn thoát khỏi nghiệp xấu ác, phải quán thấy thật tướng của nghiệp:

Gây tạo thuần nghiệp ác
Và tạo các nghiệp tạp
Lưu chuyển cõi Diêm-la
Thọ lấy các sự khổ.
Thật không cõi Diêm-la
Cũng không người lưu chuyển
Tự tánh vốn vô sanh
Các khổ dường cảnh mộng
Nếu quán được như thế
Là Diêm-la tam-muội.


Có cõi xấu ác, nơi ấy thọ những sự khổ, cũng là do nghiệp chuyển về cõi ấy. Nhưng thật ra, nghiệp, người thọ nghiệp, cõi để thọ nghiệp… đều vô tự tánh, nên không thật có cõi Diêm-la, không thật có người lưu chuyển, vì tất cả “tự tánh vốn vô sanh, như huyễn, như mộng”. Thấy được như thế là tam-muội, là trụ trong tánh Không giải thoát. Còn không thấy được như thế, nghĩa là thấy mọi sự đều có thật, thì như người xưa nói, “Rõ thì nghiệp chướng xưa nay Không; không rõ thì nợ xưa đành trang trải”.

Thiền sư Từ Đạo Hạnh (?-1115) nói, “Có thì có tự mảy may, Không thì cả thế gian này cũng không…” (Tác hữu sa trần hữu - Vi không nhất thiết không…).
Một người dù chỉ chứng ngộ được một phần tánh Không, cũng thấy rằng nguyên nhân (Tập đế) khiến chúng sanh lưu chuyển trong ba cõi sáu đường là do “lấy không thân làm thân, danh tự giả bịa đặt” (Ca-lâu-la tướng tam-muội), “Pháp vô tác làm tác, gọi là khẩn-nala”, “Trong ấy không có pháp, mà vọng khởi phân biệt, biết rõ phân biệt ấy, tự tánh vô sở hữu, vì tướng ấy tịch tịnh, là ma-hầu tam-muội”. Khổ đau trong ba cõi sáu đường như thế chỉ vì hư vọng thấy, hư vọng chấp trước, và hư vọng hành động theo cái thấy mê lầm của mình.

Người thấy chúng sanh khổ đau trong ba cõi không thật như vậy bèn tự nhiên sanh lòng đại bi. Đại bi là cái tự nhiên sanh một khi đã thấy một phần tánh Không. Đại bi là thấy tất cả chúng sanh vốn ở trong tánh Khônghư vọng thấy lầm là có thật và tạo tác nghiệp rồi lại cho đó là có thật mà sanh thêm khổ đau. Trong hư không, trong như huyễn, trong cảnh mộng mà chúng sanh lại khóc than và tiếp tục hành động sai lầm để tiếp tục khóc than, thấy như vậy bèn tự nhiên có lòng bi. Và người có lòng bi, nguyện ở với chúng sanh để thức tỉnh họ, được gọi là Bồ-tát.
Nhưng ở với chúng sanh để giúp đỡ họ là một vấn đề lớn. Sống với chúng sanh là phải sống với tất cả những phiền não của chúng sanh. Làm sao người sống theo những điều tốt đẹp, hướng thượng có thể sống với người bác bỏ những điều tốt đẹp, và người không khổ đau có thể sống với người khổ đau ghê gớm? Làm sao có thể sống với chiến tranh, chém giết, cái xấu ác tràn lan ở một cõi, và những tai nạn xảy ra hàng ngày?

Để có thể sống với chúng sanhnghiệp quả của chúng sanh, vẫn phải lấy trí huệ soi thấu tánh Không làm sinh mạng cho mình: thấy không có chúng sanh (“cũng không người lưu chuyển”), không chấp thật những nghiệp của chúng sanh (“biết rõ nghiệp như huyễn”), không thấy các khổ là có tự tánh (“các khổ dường cảnh mộng”). Tóm lại, để có thể sống trong sanh tử cùng với chúng sanh, phải thấy ba cõivô tự tánh, như huyễn như mộng, chúng sanhvô tự tánh, như huyễn như mộng, và nghiệp nhân nghiệp quả của chúng sanhvô tự tánh, như huyễn như mộng. Tánh Khôngphương tiện thiện xảo rốt ráo của người tu Bồ-tát đạo. Trí huệ tánh Không vô ngại suốt thông qua ảo tưởngtự tánh của nghiệp để sanh tử trở lại vô tự tánhsanh tử vô tự tánh mới có thể là môi trường an toàn cho lòng bi sống và hoạt động.

* * *
Nghiệp do ba phiền não căn bản tạo thành là tham, sân, si. Thiền định thiền quán cho thấu nguồn tột đáy, thì tham được thấy là:

Tham từ phân biệt sanh
Phân biệt cũng chẳng có
Vô sanh cũng vô tướng
Trụ xứ bất khả đắc.
Tánh tham như hư không
Cũng không có kiến lập
Phàm phu vọng phân biệt
Do đó sanh tham nhiễm.
Pháp tánh vốn vô nhiễm
Thanh tịnh như hư không
Tìm cầu khắp mười phương
Tánh nó bất khả đắc…
Các pháp tự tánh lìa
Giống như là Niết-bàn
Chư Phật trong ba đời
Biết tánh tham là Không
Trụ trong cảnh giới ấy
Chưa lúc nào lìa bỏ
Tự tánh tham như vậy
Rốt ráo chứng Bồ-đề
Rõ thấu đều bình đẳng…
Vì biết tham không nhiễm
Tức là rốt ráo Không
Chẳng do diệt hoại tham
đạt được giải thoát.
Pháp tham trong Phật pháp
Bình đẳng tức Niết-bàn
Người trí phải nên biết
Rõ tham tịch tịnh rồi
Nhập vào chỗ tịch tịnh
Đó tên tham tam-muội
.

Thấy rõ tướng tham “không có tự tánh, bất khả đắc, thật không có sanh, chỉ có danh tự giả…” bèn thấy được tự tánh hay bản tánh của tham là “Không, tự tánh lìa như Niết-bàn, rốt ráo thường thanh tịnh, bình đẳng tức Niết-bàn, pháp tánh vốn vô nhiễm, thanh tịnh như hư không”. Trụ trong bản tánh ấy tức là giải thoát, là tham tam-muội.

Kinh dạy quán thấy sân để trụ trong sân tam-muội như sau:

Do nhân duyên hư vọng
Mà khởi lòng giận dữ
Không ngã chấp làm ngã
Và do tiếng thô ác
Khởi lòng sân quá mạnh
Giống như là ác độc
Âm thanhgiận dữ
Rốt ráo vô sở hữu.
Như xát gỗ ra lửa
Cần nhờ sức các duyên
 
Nếu duyên chẳng hòa hợp
Thì lửa chẳng thể sanh
Biết tánh thanh là Không
Sân bèn chẳng còn sanh
Sân chẳng ở nơi thanh
Cũng chẳng ở trong thân
Nhân duyên hòa hợp khởi
Rời duyên chẳng sanh được
Sân tự tánh không khởi
Rốt ráo vô sở hữu
Tánh sân vốn tịch tịnh
Chỉ có nơi giả danh Giận dữ tức
Thật tế Bởi nương Chân như khởi
Biết rõ như pháp giới
Đó gọi sân tam-mu
ội

Sân do nơi âm thanh, phiền não và thân hòa hợp mà có, nhưng sân chẳng ở nơi âm thanh, nơi phiền não, nơi thân. Sân do những nhân duyên hòa hợp mà có, rời nhân duyên hòa hợp thì sân vốn không có: “Sân tự tánh không khởi, rốt ráo vô sở hữu”. Tánh sân vốn tịch tịnh, ở trong Thật tế tịch tịnh vì không có ta và người ấy, lại hư vọng chấp vào một cái ngã giả danh mà thành ra sân.

Quan sát thấu đáo thì “giận dữ tức Thật tế”, bởi vì giận từ trong Chân như mà khởi, nên cũng là Chân như, rồi phút chốc tan trở lại vào Chân như.

Thế nào là si tướng tam-muội?

Vô minh [si] thể tánh Không
Vốn tự không sanh khởi
Trong ấy không chút pháp
Có thể gọi là si.
Phàm phu nơi vô si
Hư vọng sanh lòng si
Nơi vô trước sanh trước
Giống như gút hư không.
Hư không không tích tụ
Người ngu từ xa xưa
Vọng khởi gút ngu si
Mà không chút phần tăng
Như người gút hư không
Không hề tăng hay giảm
Nhóm ngu si nhiều kiếp
Không tăng giảm cũng vậy…
Si ấy vô sở hữu
Không gốc không chỗ trụ
Vì gốc chẳng phải có
Cũng không si để tận
Bởi vì si vô tận
Biên tế bất khả đắc
Thế nên các chúng sanh
Ta chẳng thể làm tận
Si giới, chúng sanh giới
Cả hai đều vô tướng
Chúng đều như huyễn hóa
Nên chẳng làm tận được.
Si tánh và Phật tánh
Bình đẳng không sai khác
Nếu phân biệt trong Phật
Người ấy ở ngu si
Si và Nhất thiết trí
Tánh đều bất khả đắc…
Si không có biên tế
Từ đâu mà sanh được
tự tánh vô sanh
Tướng cũng bất khả đắc
Biết si không có tướng
Quán Phật cũng như vậy.
Phải nên biết như vậy
Tất cả pháp không hai
Tánh si vốn tịch tịnh
Chỉ có danh tự giả
Lúc ta chứng Bồ-đề
Thấy rõ si bình đẳng
Quán sát được như vậy
Đó gọi si tam-muội.

Một người đi con đường Bồ-tát, ngoài việc giải thoát cho chính mình bằng cách quán thấy tánh Không của sanh tử, còn phải ở lại với chúng sanh trong sanh tử để giúp họ giải thoát. Bồ-đề tâm là nguyện đạt đến giác ngộ (trí huệ tánh Không) để cứu độ tất cả chúng sanh (Đại bi). Để chung sống với chúng sanh còn đầy dẫy tham sân si thì phải quán thấy thật tánh của tham sân si và chủ nhân của tham sân sitánh Không, như huyễn: “Si giới, chúng sanh giới; cả hai đều vô tướng; chúng đều như huyễn hóa; nên chẳng làm tận được”.

Tham sân si đối với chúng sanh thì có sanh, nhưng đối với Bồ-tát thì không có sanh, vô sanh, nên Bồ-tát có thể an ổn trong sanh tử.

Trí huệ giải thoát đi đôi với lòng bi là con đường Bồtát, cả hai hợp nhất với nhau không tách lìa. Trí huệ tánh Không đưa tham, sân, si của mình và của vô số chúng sanh về nền tảng của chúng là tánh Không, Niết-bàn, Phật tánh, Chân như. Chính trí huệ tánh Không có thể làm cho đại bi đại nguyện của Bồ-tát không bị chìm đắm trong sanh tửchúng sanh.

Hơn nữa, với trí huệđại bi hợp nhất, vị tu Bồ-tát đạo có thể tiến đến cái thấy biết của Phật (tri kiến Phật) khi đưa toàn bộ chúng sanhsanh tử về lại cội nguồn Phật tánh, Chân như của chúng. Những đoạn kệ trên đều nói đến cái thấy biết của Phật khi Ngài giác ngộ: “Lúc Ta chứng Bồ-đề, rõ thấu đều bình đẳng”; “Lúc Ta chứng Bồ đề, thấy rõ si bình đẳng”, “chư Phật trong ba đời, biết tánh tham là Không, ở trong cảnh giới ấy, chưa lúc nào lìa bỏ”.

Cái thấy biết của Phật là tất cả vũ trụchúng sanh đều là Niết-bàn, Chân như. Phật tánh; tất cả đều ở “trong Phật”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo Số 324 ngày 1-7-2019 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10082)
... người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó.
(Xem: 11860)
Phái đoàn chúng tôi gồm 34 người đã thực hiện chuyến hành hương Hàn Quốc - Đài Loan - Singapore, dưới sự hướng dẫn của trưởng đoàn Thầy Hạnh Giới.
(Xem: 11642)
Chỉ riêng Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, dù thịnh hay suy, tiếng chuông sớm khuya vẫn không hề gián đoạn, hay tắt lịm giữa đêm tối vô minh.
(Xem: 11702)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui.
(Xem: 10188)
Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành, đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa.
(Xem: 9476)
Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy.
(Xem: 10332)
Thuở đó, tăng đoàn thường ba Y, một Bát, từng bước chân trần hoằng hóa đó đây, đêm nghỉ trong rừng, tìm gốc cây êm mát, gối đầu mà ngủ.
(Xem: 9786)
Tập quán lì xì của người Việt chúng ta thực sự bắt nguồn từ một truyền thống lâu đời của Trung Quốc...
(Xem: 11827)
Ta đưa đôi mắt thiền quán nhìn sâu vào danh tướng, để thấy rõ danh tướng có làm cho ai khổ đau không? Danh tướng không làm cho ai khổ đau cả, mà danh tướng cũng không làm cho ai hạnh phúc hết.
(Xem: 11501)
Như từ một đống hoa tươi, Lựa ra ghép lại cho đời tràng hoa, Nhiều tràng phô sắc mặn mà, Người đời cũng vậy khác xa đâu nào
(Xem: 10528)
Mỗi ngày khi vừa thức giấc, Hãy nghĩ rằng, May mắn thay hôm nay, Tôi đã thức dậy, Thấy mình vẫn còn sống, Vẫn giữ được sự sống quý giá của con người.
(Xem: 11865)
Khắp nơi trong cõi dương gian, Hận thù đâu thể xua tan hận thù, Chỉ tình thương với tâm từ, Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm, Đó là định luật ngàn năm.
(Xem: 10296)
“Khi tôi trông thấy một con vật dường như ngu đần mà lại biết khóc, cặp mắt của nó còn lộ vẻ đầy hãi sợ và buồn khổ, tôi bỗng rùng mình!”
(Xem: 10494)
Cứ mỗi lần nhìn bức thư pháp nơi chánh điện chùa Phổ Từ, tôi lại nhớ đến Sư Ông. Không những qua hàng chữ mường tượng ra bóng dáng người mà trong nét bút màu mực lưu lại như còn văng vẳng lời nhắc nhở tràn đầy ưu ái của Sư Ông đối với tôi và mọi người.
(Xem: 10737)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949), mang tựa là Muttodaya (Un Coeur Libéré/A Heart Released/Con Tim Giải Thoát).
(Xem: 11546)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949).
(Xem: 12289)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi.
(Xem: 10147)
Cho, không phải chỉ là làm vui kẻ đón nhận; mà còn là một thái độ, một nghệ thuật sống ở đời để có hạnh phúc...
(Xem: 9798)
Khi đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm uẩn; Ngài muốn cho chúng ta biết và thấy năm uẩn...
(Xem: 10420)
... ngài Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu một ngày của mình bằng việc lễ lạy. Từ tư thế đứng, ngài buông dài người ra sàn nhà, với chỉ một tấm đệm mỏng trải trên tấm ván đủ cho phần thân mình.
(Xem: 9674)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới...
(Xem: 11280)
Nụ cười của Ngài thật là tinh tế. Thế nhưng tại sao Ngài lại mỉm cười? Có phải đấy là một thể dạng phúc hạnh mà Ngài cảm nhận được trong khi thiền định hay chăng?
(Xem: 9923)
Con người đau khổ bởi sinh già bệnh chết, tâm đau khổphiền não tham sân si, mạn, nghi, ác kiến.
(Xem: 12003)
Ngủ nghỉ mới thức dậy, xin nguyện cho chúng sanh, có trí giác hoàn toàn, nhìn rõ khắp mười phương...
(Xem: 9701)
Mãi cho đến mấy chục năm sau, Thầy mới tìm ra được hình ảnh của một vị Thầy đích thực, một vị Bổn Sư. Bổn Sư chỉ có nghĩa là "Thầy của tôi" thôi.
(Xem: 22009)
30 năm qua được coi là quá đủ cho một thế hệ tiếp nối. Nếu không được ghi lại, kể lại thì lớp người sau chắc chắn sẽ đi vào quên lãng hay hiểu một cách lờ mờ hoặc qua trung gian một người khác kể...
(Xem: 10249)
Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” như bản tóm lược, hay nói khác thì đây là công trình “Thi Hóa Duy Thức Học” để làm tài liệu tu học. Một môn học quan trọng bậc nhất đối với người học Phật.
(Xem: 9506)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này.
(Xem: 10246)
Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện...
(Xem: 16725)
Đạo sư nói: "Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều".
(Xem: 14340)
“Mùa Xuân bỏ vào suối chơi, Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa, Múc bình nước mát về qua, Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa”
(Xem: 10301)
Người tụng kinh lâu ngày sẽ hiểu ý kinh, Người niệm Phật lâu ngày sẽ thấy cảnh Phật...
(Xem: 9285)
Triều Nguyên sinh năm 1953 tại Đại Lộc, Quảng Nam, bên bến sông Thu Bồn lồng lộng gió nắng, ngan ngát hương đồng cỏ nội.
(Xem: 9355)
“Khi một ý xấu vừa manh nha, biết ngay tai họa của nó, ta liền giữ chánh niệm như cây bám chặt vào đất”.
(Xem: 13106)
Phật giáo đã có ít nhất 2500 năm lịch sử; và có lẽ, cũng đã có chừng ấy lần các thế hệ Phật giáo đồ xao lòng nhớ lại câu chuyện Phật dự hứa ngày viên tịch, báo trước giây phút bỏ lại trần gian.
(Xem: 10924)
Nói đến mùa thu, người ta nghĩ ngay đến lá vàng. Trên cây là những tán lá vàng rợp. Dưới đất là những thảm lá vàng, trải lấp cả lối đi.
(Xem: 12462)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã có những lời dạy thật chí thiết về con người và sự vật, cảnh giớicõi nầy hay những cõi khác.
(Xem: 10919)
Shunryu Susuki Đại sư (1904-1971) là người sáng lập Trung tâm Thiền San Francisco và là một khuôn mặt chủ chốt trong việc truyền bá đạo Phật sang phương Tây.
(Xem: 13075)
Cuối tuần qua, tại Trại Huấn luyện Huyền Trang V ở Hayward, CA. Vừa lắng nghe và thông dịch lại cho các Trại sinh không hiểu tiếng Việt qua đề tài Thấu đáo về Hiện tình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
(Xem: 11580)
Phật ngồi đó, tiếp tục thiền định với ánh mắt từ bi hướng về những người đang thảnh thơi thưởng thức một tách cà phê ấm hoặc bận chăm chú xem màn ảnh của điện thoại...
(Xem: 9869)
Trong khuôn viên khu nhà tập thể của quân đội, xe Bus của từng đơn vị lần lượt chuyển bánh rời khỏi vùng Fribourg vào sáng ngày cuối khóa tu học
(Xem: 12935)
Tường thuật lễ Kỷ niệm 30 năm thành lập chùa Bảo Quang và Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu PL 2558
(Xem: 11419)
Suốt bãi biển dài rộng, không ai mong đợi một cái gì trường cửu. Tất cả đều tạm bợ, có đó, rồi để cho sóng vô tình cuốn đi...
(Xem: 13155)
Nó từng đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chuyện trò đối đáp đùa giỡn của chúng tôi quanh chiếc bàn này - vui có, buồn có, thương yêu, giận lẫy cũng có.
(Xem: 12690)
Thế giới của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao nếu mỗi người không chỉ chăm lo về lợi ích riêng của mình mà còn chăm lo về lợi ích của người khác nữa.
(Xem: 13482)
"Cơn Dông Giữa Mùa Hạ" là tựa đề bài tường thuật của Trần Thị Nhật Hưng nói lên nỗi niềm bâng khuâng và xúc động cùng những kỷ niệm tràn ngập dội về tâm trí của tác giả khi hay tin Sư Ông Khánh Anh viên tịch.
(Xem: 25239)
Thể theo giáo luật và truyền thống Phật Giáo, mùa An Cư Kiết Hạ lần 26 năm nay của GHPGVNTN Canada được tổ chức tại Tu Viện Phổ Đà Sơn.
(Xem: 12475)
Buổi lễ khai giảng diễn ra trong bầu không khí trang nghiêmtrầm lặng đầy nước mắt, bao trọn hình ảnh của cố Hòa Thượng Minh Tâm trong những lời phát biểu.
(Xem: 12958)
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
(Xem: 13776)
Loài cỏ bệnh úa tàn thân xác, Đã gầy hao từ gốc rễ cằn khô, Chắc tại nắng, tại mưa, tại bao điều khác, Nằm co ro đợi chết đến giờ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant