Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giáo Lý Tứ Diệu Đế

30 Tháng Chín 201902:05(Xem: 6045)
Giáo Lý Tứ Diệu Đế
GIÁO LÝ TỨ DIỆU ĐẾ 
(CATTĀRI SACCĀNI)

Thích Trung Định

Giáo Lý Tứ Diệu Đế

Tứ Diệu Đế (Cattāri saccāni) là bài giảng đầu tiên của Đức Phật cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển để vận chuyển bánh xe chánh pháp. Đây là bài pháp căn bản chỉ rõ về bốn sự thật cao quý của con ngườicuộc đời. Bốn sự thật này có thể được tìm thấy và trải nghiệm ngay tại trong thân tâm của chúng ta. Bốn sự thật ấy là gì? Đó là chân lý về Khổ (dukkha), nguyên nhân của đau khổ (Dukkha-Samudaya), sự chấm dứt đau khổ (Dukkha-nirodha) và con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ (Dukkha-nirodha-Marga).

Tứ Diệu Đếgiáo lý nền tảng của Phật giáo và được xem là thiện pháp tối thắng. Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta) đã từng nhận định: “Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này là to lớn trong tất cả dấu chân về mặt to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong Tứ Thánh đế.”[1] Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinibbānasutta), Trường-bộ-kinh, bản kinh số 16, Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Bốn Thánh đếchúng ta phải lưu chuyển trong luân hồi sanh tử trong một thời gian dài.”[2]Vì vậy, sự hiểu biết, thâm nhập về giáo lý Tứ diệu đếvô cùng quan trọng cho tất cả mọi hành giả học và tu Phật.

Nội dung Tứ diệu đế

1. Khổ đế (Dukkha): Diệu đế thứ nhất (Dukkha-ariyasacca) thường được hầu hết các học giả dịch là “Chân lý cao cả về sự khổ”. Về chân lý đầu tiên này đức Phật dạy: có ba loại khổ hay tám loại khổ đó là: khổ khổ, hành khổhoại khổ. Tám khổ như được trình bày trong Tương –ưng- bộ- kinh như sau: “Đây là Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.”[3]

2. Tập đế (Samudaya): Nguyên nhân của khổ là tham ái (taṇhā), có ba loại tham ái đó là: (i) dục ái (kāma- taṇhā), (ii) hữu ái (bhāva- taṇhā), và (iii) vô hữu ái (vibhāva- taṇhā). Tham ái khởi động dẫn đến sự tích tụ của nghiệp đưa đến quá trình sinh tử. Trong bài giảng đầu tiên của mình, đức Phật tuyên bố: “Đây là Thánh đế về Khổ tập, này các Tỷ-kheo, chính là ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.”[4]

3. Diệt đế (Nirhodha): Chân lý thứ ba, tức là sự thật về chấm dứt đau khổ, đề cập đến giai đoạn Niết-bàn, vốn không phải là trạng thái tiêu cực như thường thấy, nhưng là một điều tích cực và được mô tả như là chưa sinh, không trở thành, vv. “Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, chính là ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước.”[5]

4. Đạo đế (Dukkha-nirodha-Marga): Đạo đếcon đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, đó là thánh đạo tám ngành. Trong bài giảng đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như tại Sanarth, Đức Phật giảng giải“Và thế nào là con đường Trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đây là con đường trung đạo, này các Tỷ-kheo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”[6]

Với cấu trúc này, đức Phật đã giới thiệu cho chúng ta thấy rõ hai cặp phạm trù nhân quả thế gianxuất thế gian. Khổ và tập là quả và nhân của thế gian; diệt và đạo là quả và nhân xuất thế gian. Đây là một phạm trù cấu trúc logic và khoa học để khẳng định giáo lý nhân quảgiáo lý quan trọng trong Phật giáo. Mục đích của đạo Phậtgiải thoát mọi đau khổ, vì vậy các pháp môn được thiết lập, mọi nỗ lực tu tập đều hướng về mục tiêu ấy. Tứ Diệu Đế là bải học nói về thực trạng đau khổ của con người, về nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến đau khổ, về sự chấm dứt đau khổ và về con đường hay phương pháp thực hành dẫn đến việc chấm dứt khổ đau.

Tam chuyển pháp luân thập nhị hằng: Khi trình bày về giáo lý tứ đế cho năm anh em Triều Trần Như tại vườn Lộc Uyển đức Phật đã thuyết theo phương pháp Tam chuyển. Tam chuyển pháp luân gồn có ba phần đó là thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển. Đây là ba lần quay bánh xe chánh pháp.

1) Thị chuyển là Phật chỉ bày rõ ràng bốn lẽ thật có tánh cách khách quan. Phật dạy: Đây là khổ đế, đây là tập đế, đây là diệt đế và đây là đạo đế.

2) Khuyến chuyển là Phật khuyên nhủ và khuyến khích 5 vị Tỳ kheo bây giờ hãy chánh tư duy để phát sinh trí tuệ. Đây là khổ đế các ông phải biết. Đây là tập đế các ông phải đoạn. Đây là diệt đế các ông phải chứng. Đây là đạo đế các ông phải tu.

3) Chứng chuyển là Phật nói đối với các pháp Tứ Đế các ông đã biết, đã tu, đã đoạn và đã chứng. Đây là khổ ta đã biết, đây là khổ tập ta đã đoạn. Đây là khổ diệt ta đã chứng và đây là khổ đạo ta đã tu. Vì mỗi đế đều có ba chuyển nên bốn đế cộng lại thành 12 hành; nên gọi là tam chuyển pháp luân thập nhị hành.

Tứ đếChân lý của chư Phật ba đời

Tứ Diệu Đế, không chỉ đức Phật Gotama chứng ngộ, mà chân lý ấy được chứng ngộ bởi chư Phật ba đời, quá khứ, hiện tại, và tương lai. Trong Tương-ưng-bộ-kinh, Đức Phật dạy: “Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời quá khứ, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Đẳng Giác; tất cả những vị ấy đã như thật chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.  Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời vị lai, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Đẳng Giác; tất cả những vị ấy sẽ chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.  Những bậc A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác nào trong thời hiện tại, này các Tỷ-kheo, thật sự là bậc Chánh Đẳng Giác; tất cả những vị ấy hiện đang chánh đẳng chánh giác bốn Thánh đế.”[7]

Tứ đếchân lý như thật

Tứ diệu đếchân lý thực tại như thật bởi Như Lai tuyên thuyết, không hư vọng, không cuống thuyết. Bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, là như thật, không ly như thật (avitathàni), không khác như thật (anannathàni). Thế nào là bốn?

 “Đây là Khổ, này các Tỷ-kheo, đây là như thật, không ly như thật, không khác như thật.  Đây là Khổ tập, này các Tỷ-kheo, đây là như thật, không ly như thật, không khác như thật.  Đây là Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, đây là như thật, không ly như thật, không khác như thật.  Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, đây là như thật, không ly như thật, không khác như thật.”[8]

Chúng ta lắng nghe lời khẳng định của Tôn giả A-nâu-lâu-đà về tính như thật, không khác của Giáo lý Tứ đế trong Kinh Di Giáo“Bạch đức Thế-Tôn, mặt trăng có thể nóng, mặt trời có thể lạnh, chư Phật nói pháp Tứ-Đế, không thể có sự sai khác được. Phật nói Khổ-Đế thực là khổ, không thể vui được; Tập-Đế thực là “nhân”, không có nhân khác; Khổ, nếu diệt trừ, tức là nhân diệt. Nhân diệt nên quả diệt; đạo “diệt khổ”, thực là chân-đạo, không còn đạo nào khác nữa. Bạch Đức Thế-Tôn các vị Tỳ-Khưu, đối với pháp “Tứ-Đế”, quyết định không còn sự ngờ vực gì nữa.[9] (Kinh Di Giáo).

Lại nữa, những sự thật cao cả gọi là những sự thật thuộc về những bậc thánh, như kinh nói: “Này các tỷ kheo, nhờ tìm ra bốn sự thật cao cả này mà Như Lai được tôn xưng là bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác.” (S. v, 433).

giá trị như nắm lá trong lòng bàn tay

Tương-ưng-bộ-kinh (Saṃyutta-Nikāya) ghi lại rằng, một lần Đức Phật trú tại Kosambi trong rừng Sisapā. Một hôm ngài lấy một vài lá Siṁsapā nằm rải rác trên mặt đất rồi đặt trong lòng bàn tay và hỏi mọi người. Này các Tỷ kheo lá trong lòng bàn tay của Ta là ít hay lá trong rừng Sisapā là ít? Tất cả mọi người đều trả lời rằng, lá trong lòng bàn tay Ngài là ít hơn lá trong rừng Sisapā. Phật dạy: “Đúng như vậy, này các Tỷ kheo, những điều ta biết là nhiều như lá trong rừng Sisapā, nhưng ta không giảng dạy, những điều ta giảng dạy chỉ như nắm lá trong lòng bàn tay. Và này các Tỷ kheo tại sao ta không giảng dạy chúng? Vì chúng không đưa đến lợi ích, chúng không phải là những điều thiết yếu đưa đến đời sống thánh thiện, không dẫn đến sự thanh tịnh, khinh an, đoạn tận, hiểu biết trọn vẹn, trí tuệ hoàn hảo, đạt đến Niết Bàn. Đó là lý do tại sao ta không giảng dạy chúng.[10]

Giáo lý Tứ diệu đế, có giá trị như nắm lá trong lòng bàn tay, bởi vì chúng có lợi ích thiết thực, đưa đến sự giác ngộNiết bàn“Và, này các Tỷ kheo ta đã dạy những gì? Ta đã dạy: Đây là đau khổ; Ta đã dạy: Đây là nguồn gốc của khổ đau; Ta đã dạy: Đây là sự chấm dứt đau khổ; Ta đã dạy: Đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ.’ Và tại sao, các Tỷ kheo ta đã dạy những điều này? Bởi vì những điều này có lợi, có liên quan đến các nguyên tắc cơ bản của đời sống tâm linh, và chúng sẽ dẫn đến sự đoạn tận vô minh, tham ái, sự chấm dứt, an tịnh, hướng đến trí tuệ, giác ngộ, và Niết Bàn.”[11]

Chỉ vì không hiểu: Sở dĩ chúng sinh trầm luân trong luân hồi sinh tử chịu nhiều đau khổ là vì họ đã không hiểu, không thâm nhập giáo lý Tứ Diệu Đế“Các Tỷ kheo, đó là vì không hiểu biết và không thâm nhập giáo lý Tứ Diệu Đế mà ta và các ngươi đã vào ra trong luân hồi sinh tử, chịu nhiều khổ đau trong một thời gian dài.”[12] 

“Nhưng nay, này các Tỷ kheo, Thánh đế về Khổ này đã được giác ngộ, đã được thông đạt; Thánh đế về Khổ tập đã được giác ngộ, đã được thông đạt; Thánh đế về khổ diệt đã được giác ngộ, đã được thông đạt; Thánh đếCon Đường đưa đến Khổ diệt đã được giác ngộ, đã được thông đạt. Được chặt đứt là hữu ái, được đoạn tận là những gì đưa đến tái sinh (bhavanetti). Nay không còn tái sinh nữa.”[13]

Vực thẳm: Trong khi phân tích về chuỗi vận hành của mười hai chi phần duyên khởi, chúng ta thấy được rằng căn nguyên sâu xa gây ra đau khổ đó là vô minh (avijjā), và vô minh là không nhận biết về giáo lý Tứ Diệu Đế. Vì vậy, những người không thâm hiểu bốn chân lý này thì tâm hành rơi xuống vực thẳm của sinh, lão, bệnh và tử: “Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không như thật rõ biết: ‘Đây là Khổ’... không như thật rõ biết: ‘Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt’. Họ hoan hỷ với các hành đưa đến sanh, họ hoan hỷ với các hành đưa đến già, họ hoan hỷ với các hành đưa đến chết, họ hoan hỷ với các hành đưa đến sầu, bi, khổ, ưu, não. Vì họ hoan hỷ với các hành đưa đến sanh... đưa đến già... đưa đến chết... đưa đến sầu, bi, khổ, ưu, não, họ tạo dựng các hành đưa đến sanh, họ tạo dựng các hành đưa đến già... đưa đến chết,... do họ tạo dựng các hành đưa đến sanh... đưa đến già... đưa đến chết... đưa đến sầu, bi, khổ, ưu, não, nên họ rơi vào vực thẳm sanh, họ rơi vào vực thẳm già, họ rơi vào vực thẳm chết, họ rơi vào vực thẳm sầu, bi, khổ, ưu, não. Họ không liễu thoát khỏi sanh, khỏi già, khỏi chết, khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, họ không liễu thoát khỏi đau khổ.”[14]Do đó, chân lý cao cả của đau khổ, nguồn gốc của đau khổ, sự chấm dứt khổ đau và con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, chúng ta phải hiểu và thâm nhập. Do hiểu và thâm nhập nên chúng ta không còn vào ra trong luân hồi sanh tử (saṁsāra) và không rơi xuống vực thẳm của sanh, già, bệnh và chết.

Thực hiện bước đột phá: Thuốc giải độc cho sự thiếu hiểu biếttri thức (vijja), được định nghĩa như là kiến thức hiểu biết về Tứ diệu đế. Sự thâm nhập bước đầu tiên của Tứ Diệu Đế xảy ra với sự đạt được là sự chứng ngộ thánh quả Dự lưu, được gọi là sự đột phá về Pháp (dhatnmabhisamaya) hay còn gọi là đắc được pháp nhãn. Để làm cho bước đột phá này không dễ dàng, nhưng nếu không làm như vậy thì không thể chấm dứt được đau khổ. Do đó, Đức Phật lại thúc giục các đệ tử ‘thực hiện một nỗ lực phi thường’ (make an extraordinary effort) để đạt được sự đột phá về chân lý.[15] “Sau khi như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ... khi như thật giác ngộ Thánh đế về nguyên nhân của khổ, khi như thật giác ngộ Thánh đế về sự diệt khổ, sau khi như thật giác ngộ Thánh đế về Con Đường đưa đến Khổ diệt, ta sẽ chơn chánh đoạn tận Khổ đau; sự kiện này có xảy ra.”[16]

Theo Câu Xá Luận, Biết rõ về Tứ thánh đế được gọi là Tận trí và Vô sinh trí. “Tận trí là gì? – khi tự biết được ‘ta đã biết rõ về khổ, ta đã đoạn trừ tập, ta đã làm cho diệt hiện khởi, ta đã tu tập đạo, và từ đó xuất phát sự hiểu biết (jñāna, trí) (tad upādāya yaj jñāna), sự nhìn thấy (darśana, kiến), sự sáng suốt (vidyā, minh), sự giác ngộ (bodhi, giác), sự liễu giải (budhi), sự phân biệt (prajñāna), sự sáng tỏ (āloka), sự quán thông (vipaśanā) thì gọi là Tận trí.” Vô sinh trí là gì? - khi tự biết được: “ta đã biết rõ về khổ và không còn phải tìm hiểu về khổ nữa…, ta đã tu tập đạo và không còn phải tu tập gì nữa’, và từ đó xuất phát sự hiểu biết, v.v. thì gọi là vô sinh trí.

Do vậy đối với bốn chân lý, khổ, tập, diệt, và đạo chúng ta cần như thật rõ biết, thâm nhập để không còn trầm luân trong luân hồi sanh tử chịu nhiều đau khổ, và không bị rơi xuống vực thẳm của sinh, lão, bệnh và tử.

Đoạn tận lậu hoặc: Sự đoạn tận lậu hoặc (āsava) là mục đích cuối cùng của trí tuệ trong đề mục đất của tuệ về ‘Tứ diệu đế’. Khi các hành giả thực hiện bước đột phá và thấy rõ về giáo lý Tứ Diệu Đế, nhưng nhiều vấn đề vẫn còn ở phía trước, đó là đối với mỗi chân lý cần áp đặt một nhiệm vụ phải được hoàn thành để giành chiến thắng trong trong sự chứng ngộ các quả vị tu tập. Cụ thể, sự thật về khổ đau, bao gồm năm uẩn, phải được hiểu đầy đủ (pariññeyya). Sự thật về nguồn gốc của đau khổ, ái, cần phải đoạn trừ (pahatabba). Sự thật của sự đoạn diệt, Niết Bàn, phải được nhận ra (sacchikatabba). Và sự thật về con đường đưa đến đoạn tận khổ đau, Bát Chánh Đạo, phải được tu tập (bhavetabba).

Cần phải được áp dụng thực tập con đường đưa đến cho hoàn thành tất cả bốn nhiệm vụ, lúc này vị thánh đệ tử bắt đầu đạt được sự đoạn tận các lậu hoặc. Quá trình này bắt đầu bằng sự thâm nhập cùng Bốn Thánh Đế và do đó đức Phật nói rằng sự đoạn tận các lậu là dành cho những người biết và thấy rõ về Bốn Thánh Đế.[17]

“Với người biết, với người thấy, này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố các lậu hoặc được đoạn tận, không phải với người không biết, với người không thấy. Và do biết gì, do thấy gì, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận?  Do biết, do thấy: ‘Đây là Khổ’, này các Tỷ-kheo, các lậu hoặc được đoạn tận. Do biết, do thấy: ‘Đây là Khổ tập’... ‘Đây là Khổ diệt’... Do biết, do thấy: ‘Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt’, các lậu hoặc được đoạn tận.”[18]

Như vậy, giống như một bác sĩ giỏi cố gắng khám phá ra căn bệnh nan y và đưa ra phương thuốc chữa trị. Đức Phật, vị bác sĩ tâm linh vĩ đại, đã cố gắng tìm ra nguyên nhân cuối cùng của khổ đau trên thế gian. Ngài đã tìm ra nguyên nhân gây đau khổ đó là vô minhtham ái, từ đó dạy cho mọi người cần phải đoạn trừ chúng để chứng ngộ thánh trí giác ngộ. Vì vậy, giáo lý Tứ diệu đế với hai tầng nhân quả (thế và xuất thế) đã được so sánh với một sự phát hiện căn bệnh y khoa, chẩn đoán, chữa bệnh theo y học hiện đại.

Chi chú:

[1] Trung Bộ I, kinh Tượng Tích Dụ, Đại Kinhtrang, 184.

[2] Maurice Walshe (trans.), Dīgha Nikāya, The Long Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2012, p. 239.

[3] F. L. Woodward, The Book of the Kindred Sayings, Vol.V, Motilal Banarsidass, Delhi, 2005, p. 357.

[4] Ibid., p. 357.

[5] Ibid, p. 357.

[6] Ibid, p.357.

[7] Bhikhu Bodhi, (trans.), Saṃyutta nikāya, The Connected Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2000, 1854.

[8] Ibid., pp. 1851-52.

[9] Bhikkhu Khantipālo, (trans.), The Buddha’s Last Bequest, Buddhist Publication Society, Kandy, Sri Lanka, 2008, p.12.

[10] S.V.437. Woodward. Vol.5, p. 370, See, Harcharan Singh Sobti, Nibbāna in Early Buddhism, EBL, Delhi, 2011, p. 122.

[11] Bhikhu Bodhi, (trans.), Saṃyutta nikāya, The Connected Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2000, p.1858.

[12] Ibid, p.1852.

[13] Tỳ Khưu Bodhi, Những lời Phật dạy, (Bình Anson dịch), NXB, Thanh Niên, 2016, p.  460-61.

[14] Opcit, p. 1866.

[15] Bhikkhu Bodhi, In the Buddha’ Word, An Anthology of Discourses from the Pāli Canon, Wisdom publications, Boston, 2005, p. 317.

[16] Bhikhu Bodhi, (trans.), Saṃyutta nikāya, The Connected Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2000, p. 1858.

[17] Opcit, p. 312.

[18] Opcit, p. 1855.

 

Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 329.

Thích Trung Định
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2753)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2537)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2231)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2361)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2673)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3254)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2469)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2544)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2215)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2580)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3052)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2720)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2569)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2604)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4104)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2776)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3069)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3318)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3004)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2613)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2637)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3191)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2752)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3271)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2601)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2055)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2821)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2943)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2723)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant