Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Làm Bạn Với Hiền Thánh

08 Tháng Mười 201901:59(Xem: 3928)
Làm Bạn Với Hiền Thánh

Làm Bạn Với Hiền Thánh
Thích Trí Quảng

Lap_Truong_Tu_Hoc

Trong mùa an cư, Phật tử tùy hỷ tu trong mùa này sẽ gặt hái được kết quả tốt đẹp. Vì mùa tu có nhiều người tu và có người đắc pháp, đắc quả thì đạo lực của họ sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của mình. Thí dụ trong gia đình, con cháu quậy phá khiến mình tu không được, nhưng tất cả mọi người trong gia đình đều tu thì mình không tu cũng phải tu.

Theo chủ trương của Giáo hội chúng ta, mùa an cư là mùa tu, bắt buộc tất cả Tăng Ni phải tu, nếu không tu không được tính tuổi đạo. Xa hơn, mình tu đúng sẽ đạt được quả vị từ thấp đến cao. Vì vậy, ta tùy hỷ với người tu có quả vị, ta cũng được chia công đức.

Mùa này tu thuận lợi nhất, nên phải nỗ lực tu, cho đến ngày Tự tứ, mười phương Phật đều hoan hỷ, vì thấy chư Tăng tu hành có kết quả. Kết quả do chư Tăng cấm túc an cư được thuộc Tam thừa Tứ quả giải thoát Tăng gồm Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát.

Vì vậy, khi tu, chư Tăng có ba cách tu khác nhau. Cách thứ nhất là tu cho cá nhân mình. Phật dạy ban đầu phải lo tu cho chính mình, đừng nghĩ đến người xung quanh, vì nghiệp mình còn. Nếu xung quanhHiền Thánh Tăng, mình nghĩ đến họ, chắc chắn mình được an lành. Nhưng phàm tăng chưa đắc quả, còn đủ các nghiệp của chúng sanh. Họ chưa khắc phục được những nghiệp đó, mà mình tiếp xúc với họ và thấy không bằng lòng, như vậy là tự tạo nghiệp cho mình.

Trên bước đường tu, dù tại gia hay xuất gia, Phật khuyên đừng thấy lỗi của người khác, hãy lo bế quan là đóng các giác quan, có mắt nhưng đừng nhìn, có tai nhưng đừng nghe, vì nhìn hay nghe những gì không thích khiến mình không bằng lòng. Thậtvậy, cuộc sống của người trẻ khác với người lớn tuổi. Thí dụ mình thấy người trẻ ca hát, nhảy múa, mình không bằng lòng là nghiệp mình sanh ra. Vì vậy, việc quan trọng ở giai đoạn này, ban đầu phải lo sửa mình, không dám nghĩ đến người khác, không thấy và không nghe lỗi của người khác. Thực tập như vậy giúp tâm mình lần lần được thanh tịnh.

Còn người thích nghe, thích quan sát việc của người khác và tệ nhất là ưa quan sát cái xấu, cái sai của người, trong khi ác nghiệp của mình có sẵn rồi, lại quan sát và đem thêm cái xấu vào lòng, lâu ngày cái xấu đó biến thành nghiệp của mình thì mình sẽ làm những điều mà trước kia mình không ưa. Điều này tôi đã chứng kiến, có người ưa chê trách người khác, nhưng về sau tôi thấy họ lại làm những gì mà họ đã chê trách. Đó là quả báo do không tu mà tự tạo nghiệp.

Thực tu, không để ý đến việc của người khác, không đem cái xấu vào lòng, điều này giúp tâm mình thanh tịnh dần và tâm thanh tịnh này mới ngang qua tâm Hiền Thánh.

Người tu sai pháp thường nói tôi đi nhiều chùa, nghe nhiều thầy thuyết pháp, nhưng sao tôi vẫn khổ. Kinh Pháp hoa gọi đó là uống lầm thuốc độc. Tu đúng, nghe pháp nhiều, đem pháp vào tâm thì tâm phải thanh tịnh chứ, vì Phật nói rằng pháp có công năng tẩy sạch phiền não trần lao.

Vì vậy, nhiều khi mình nghe pháp nhưng bị lầm pháp này là pháp Phật. Tuy nhiên, Phật dạy đơn giản rằng nếu là phàm phu nói pháp thì pháp cũng trở thành phi pháp, nếu là ác ma nói pháp thì cũng là pháp của ác ma. Từ ý này, Phật nói rằng phải là Phật mới nói được pháp của Phật. Tôi chưa phải là Phật, nhưng tôi thực tập pháp Phật trong cuộc sống tu hành và có được phần nào kết quả tốt đẹp, tôi đem thành quả mình gặt hái được để chỉ cho những người hữu duyên thấy rõ con đường tu tập đúng pháp như thế nào mà Đức Phật đã dạy trong các kinh điển.

Có thể khẳng định rằng pháp Phật phát xuất từ tâm thanh tịnhtâm thanh tịnh mới phát sinh trí tuệ. Có trí tuệ mới thấy được nỗi khổ của chúng sanh khiến tâm đại bi phát khởi, muốn xóa khổ cho chúng sanh. Như vậy, pháp Phật tuyên thuyết nhằm giải trừ khổ đau. Trong khi tâm ác ma không thanh tịnh, nên không thể nói pháp của Phật.

Thực tế cho thấy có những thầy bị chê trách vì phạm lỗi lầm. Nếu thầy này sai thì đó là ác ma giả Phật. Bài học này đã được Phật kể rằng khi Ngài còn là thái tử mới phát tâm tu, Trời Đế Thích đã cảnh giác Thái tử Sĩ Đạt Ta bằng cách hiện thân làm anh thợ săn mặc áo Sa-môn. Điều này thể hiện qua câu nói khẩu Phật tâm xà, vì hình thức là thầy tu nói pháp, nhưng bên trong là ác ma.

Thái tử Sĩ Đạt Ta hỏi tại sao anh là thợ săn lại mặc áo thầy tu. Anh ta nói mặc áo thầy tu để dã thú không sợ thì nó dám tới gần mới giết được nó. Thái tử bảo anh cần tiền, tôi cần chiếc áo thầy tu, vậy mình đổi. Anh đem long bào này bán thì sống được cả đời, đưa áo tu cho tôi.

Từ câu chuyện này gợi cho chúng ta biết rằng nếu có căn lành, mình sẽ được Đế Thích, hay chư thần hiện ra cảnh báo trước. Các ngài hiện ra con người thật cũng có, hay các ngài không hiện ra, nhưng mình có linh tánh cho biết.

Thật vậy, theo kinh nghiệm của tôi, từ thuở bé xuất gia mới 12 tuổi, tôi đi nhiều chùa, đến chùa nào tôi cảm thấy bất an thì không ở và đi chỗ khác.

Nếu theo học và nghe những gì tương ưng với nghiệp mình khiến mình cảm thấy thích thế gian là mình đã lọt vô đường tà.

Có thể nói tất cả pháp Phật dồn lại chỉ nhằm giúp cho tâm hành giả thanh tịnh. Phật luôn nhắc nhở phải giữ tâm thanh tịnh, đừng để bên ngoài chi phối. Ý thức lý này, ban đầu người học pháp Phật và thực hành lời Phật dạy, phải giữ tâm thanh tịnh.

Vì vậy, đến chỗ tác động mình vui, buồn, lo, sợ, giận, phải biết đó là tà; vì tà kích động cho mình vui trước, cho mình cái lợi này, lợi nọ làm mình tham, đó là tà bắt đầu dụ mình. Nó dụ gì. Với người tham tiền, tham sắc hay tham danh, nó sẽ đem tiền, đem sắc, đem danh đến dụ mình.

Riêng tôi, trên bước đường tu, gặp người nào đề cập đến tiền bạc, sắc dụcdanh lợi thì tôi tránh. Lúc ở Nhật, tôi còn trẻ, có ba, bốn người tới nói rằng chúng tôi thấy thầy giống cậu Hai Nhứt là đệ tử của Đức Huỳnh Phú Sổ, Phật giáo Hòa Hảo. (Sau khi Nhật Bản bại trận, họ đưa cậu Hai Nhứt về Nhật để sau này phục quốc). Nếu thầy bằng lòng, tôi đưa thầy lên mây. Tôi trả lời họ rằng tôi không phải là cậu Hai Nhứt và tôi cũng không thích lên mây, thích đứng dưới đất. Họ đề cao mình là thánh, hay ca ngợi mình tài giỏi nhất. Nếu nghe như vậy, phải sợ. Phật dạy hành Bồ-tát đạo, nên giấu đi những điều mình biết, mình giỏi, huống chi là không biết mà còn mạo nhận thì chết chắc.

Được đề cao là điều đáng sợ nhất đối với người tu. Thứ hai là bị mua chuộc bằng tiền bạc, sắc dụcdanh vọng. Nếu mua chuộc, dụ dỗ không được, người ta sẽ đe dọa. Có những lúc rơi vào hoàn cảnh như vậy, mình phải có niềm tin vững nơi Phật. Dứt khoát sống theo Phật, chết cũng theo Phật, không sợ.

Thực tế cho thấy trên bước đường tu, không ít người bị mua chuộc, hoặc bị đe dọa, nên đã bỏ cuộc. Ác ma thường sử dụng hai thủ đoạn dụ dỗđe dọa làm mình buồn phiền, sợ hãi là đánh mất Chánh niệm. Mất Chánh niệm, Phật không gia bị cho mình được, dẫn đến mình sẽ phạm sai lầm này đến sai lầm khác lớn hơn và cuối cùng đọa địa ngục. Cần bình tĩnh, cần sáng suốt. Hiểu rõ điều này, tôi có khẩu hiệu càng khó khăn càng phải bình tĩnh sẽ thoát được; nhưng nếu không thoát được thân thì cũng thoát được linh hồn. Vì vậy, cuối cùng tâm mình hoàn toàn thanh tịnh, không có bốn tướng buồn giận, lo sợ, không ai dụ dỗ được, không ai đe dọa được. Và khi tâm mình thanh tịnh rồi, Hộ pháp Long thiên dẫn mình đến chỗ tốt, gặp thầy tốt, bạn tốt. Còn tâm xấu ác sẽ bị ác ma dẫn vô đường xấu.

Được Phật gia bị, tâm càng thanh tịnh, thì người xuất gia không kẹt trần thế là không kẹt cơm ăn, áo mặc, chỗ ở. Người đời luôn bị kẹt những thứ này. Ngoài ra, người tu không kẹt tình cảm ủy mị, khen chê của cuộc đời. Người ta nói gì, mình cũng bình tĩnh sáng suốt thấy được con người thật của họ thì tùy theo đó mà xử sự lợi lạc cho mình và không tổn hại người.

Điển hình như Đức Phật gặp vua Tần Bà Sa La, vua kính trọng Ngài đến mức thỉnh Ngài về Vương Xá để cất lâu đài cho Ngài ở và cho người hầu hạ. Ngài cực khổnúi rừng làm chi. Phật đã từ chối và nói rằng Ngài quen sống ở núi rừng, quen với cây trái, không quen thực phẩm bên ngoài, không quen nhà cao, cửa rộng, người hầu hạ. Nghĩa là Phật không bị vật chất chi phối, cám dỗ, cũng nhắc nhở người tu sống giản đơn, thanh tịnh; nếu không, sớm muộn cũng rơi vào cạm bẫy và đọa địa ngục.

Vì vậy, việc đầu tiên nhất, Phật bảo giữ tâm thanh tịnh và cần gặp người có thân tâm thanh tịnh. Tụng kinh Pháp hoađạo tràng Pháp hoa, nhưng thân tâm không thanh tịnh thì không có Pháp hoa. Phật nói càng giữ tâm thanh tịnh, trí càng sáng suốt.

Muốn tâm thanh tịnh, thân phải thanh tịnh. Thân đặt vô chỗ an, nó an, thân đặt vô chỗ bất an, nó bất an. Không phải đi chùa nhiều, nghe pháp nhiều, điều chính yếu là làm cho tâm được an và muốn tâm an, thân phải an.

Trong kinh Pháp hoa, phẩm An lạc hạnh thứ 14, Phật dạy muốn tu phải làm cho thân an. Phật nói có hai điều giúp thân an là hành xứ và thân cận xứ. Hành xứ là chỗ tu của chúng ta, thân cận xứ là chỗ chúng ta nên tới, nên gần gũi.

Về hành xứ, Phật khuyên chúng ta phải luôn giữ Chánh niệm và trụ Chánh định để phát sinh trí tuệ, thấy rõ cuộc đời, từng bước mới vào đạo được. Phật nói khi Ngài đặt tâm vô Chánh niệm, Chánh định, đầu tiên Phật thấy thân tứ đạitiểu vũ trụ, thấy rõ hết trong thân có sinh vật lớn cho đến sinh vật nhỏ; nói cách khác, tu phải nội quán thấy thân của mình.

Tập trung có Chánh niệm, bắt đầu quán sát, Phật thấy trong thân tứ đại của con người có từng tế bào sanh trưởng, biến dạnghoại diệt như dòng thác chảy. Tất cả sinh vật tồn tại trong thân mình và nó luôn biến đổi. Từ biến đổi nhỏ này, Phật thấy cả vũ trụ là thấy tất cả chư Phật mười phương đang thuyết pháp, mà ở trong tế bào nhỏ nhất cũng có đầy đủ chư Phật mười phương.

Thật vậy, trong bài Hồng danh sám hối: “Trong một niệm tâm, tôi thấy ba đời. Tất cả các đấng Nhơn Sư tử…”

Theo tôi, ý này rất quan trọng. Tu hành, giữ Chánh niệm thấy chư Phật ba đờitrong một niệm tâm, ta thấy những người trước ta cho đến Đức Phật Thích Ca và trụ Chánh định, ta kéo được Phật Thích Ca vào niệm tâm của mình thì sẽ kéo luôn được 1.200 La-hán và 70.000 chư Thiên cũng vào trong một niệm tâm mình.

Phật nói: “Trong một trần có trần số cõi. Trong mỗi cõi có nan tư Phật. Mỗi Phật đều ở giữa chúng hội. Tôi thấy hằng giảng hạnh Bồ-đề”. Nghĩa là trong đầu một sợi lông, tức trong một niệm tâm, ở giữa chúng hội đã có đầy đủ Phật, Bồ-tát và Bát bộ chúng Long thiên.

Thể hiện lý này, Tổ Thiên Thai nói rằng buổi sáng ngài dạo chơi non Linh Thứu ở Ấn Độ. Buổi chiều, ngài viếng núi Phổ Đà ở Trung Hoa. Nghĩa là ngài đi bằng Chánh niệm.

Tổ Thiên Thai đi qua Linh Thứu nghe Phật Thích Ca thuyết pháp, còn chúng ta sáng sớm thức dậy tụng kinh Pháp hoa: “Tôi nghe như vầy, một thuở nọ Đức Phậtnúi Kỳ Xà Quật nơi thành Vương Xá cùng chúng Tỳ-kheo một muôn hai ngàn gồm cả La-hán và bậc Tam hiền còn đang tu học, tám vạn Bồ-tát chuyển được pháp luân bất thối… Lại có chư Thiên hơn 70.000…, 8 vị Long vương, 4 Càn-thát-bà, 4 A-tu-la, 4 Khẩn-na-la cùng nhiều quyến thuộc, vua A Xà Thế cùng với quần thần…. tham dự pháp hội”.

Đọc phần mở đầu kinh Pháp hoa như vậy, nếu một niệm tâm chúng ta thâm nhập được cảnh giới mà kinh diễn tả thì chúng ta thấy bằng tâm sẽ thấy được quá khứ và thấy được mười phương. Xa hơn, Phật nói thấy được tất cả chư Phật mười phương.

Trên bước đường tu, có Chánh niệm, thấp nhất chúng ta chứng Sơ quả là không bị xã hộithiên nhiên chi phối. Được như vậy thì mức thấp nhất, chúng ta đã thấy hơn người là thấy một người đến với mình, bằng cảm tính, hay trực giác cho chúng ta biết người này xấu hay tốt và đến gặp ta với ý đồ gì. Nâng lên, chứng Tư-đà-hàm, A-na-hàm chúng ta thấy xa hơn và chứng A-la-hán, chúng ta thấy ba đời trước.

Chứng Sơ quả mới không bị xã hộithiên nhiên chi phối, ta đã hình dung được đời trước ta làm gì và ở đâu.

Điển hình Phật Thích Ca từ bỏ mọi việc thế gian, thấy đời trước của Ngài là Hộ Minh Bồ-tát ở cung trời Đâu Suất xuống đây để cứu khổ độ sanh cho nhân loại. Hoặc Kiều Phạm Ba Đề tu theo Phật, tâm thanh tịnh, giữ Chánh niệm, trụ Chánh định, nên ngài thấy kiếp trước của ngài là trâu.

Quý vị chưa thấy đời trước của mình bằng Chánh niệm thì thấy bằng suy niệm. Bắt đầu sử dụng cảm tính là cảm giác của mình, nhờ đó mình nhận ra đời trước của mình và người xung quanh. Từ cảm tính đi xa hơn một chút, biết đời trước của mình và đối tác bằng tri giác. Thí dụ nói bà này đẹp như tiên là cảm tính của mình cho biết người này là tiên, họ cũng là người, nhưng ta thấy cốt cách của họ nhẹ nhàng, lời nói nhẹ nhàng… Vì vậy, biết đời trước của người bằng cảm tính, bằng tri giác thấy họ cao thượng hay hèn mọn. Nếu họ từ súc sanh, ngạ quỷ hay địa ngục sanh lại làm người, tính chất của ba đường ác vẫn còn rõ nét trên mặt họ, trên lời nói, trên cuộc sống của họ. Cụ thể là người ở tù mới ra, họ vẫn còn dáng vẻ của tù nhân.

Chỉ tập trung và sử dụng cảm tính, tri giác biết được họ là người như thế nào qua tướng đi đứng, ăn nói của họ, như vậy mình không bị mắc lừa. Dù họ đóng kịch thế nào thì mình cũng nhận ra họ là yêu tinh.

Phải khẳng định rằng có Chánh niệm chắc chắn nhận biết đúng đắn sự việc và người đối tác. Thực chất tu theo Phật dạy phải có kết quả.

Chúng ta không sử dụng tri thức, vì nhận thức của chúng ta chỉ đúng 50%. Trực giác do Chánh định cho hiểu biết đúng 70% là nâng lên một bước, chúng ta qua quả vị thứ hai. Từ Chánh niệm đi sâu hơn, chúng ta thường làm bạn với hiền thánh trong Chánh niệm. Không có Chánh niệm, chỉ có tà niệm thì đi nhiều chùa cũng vào đường tà, vì cái gốc là tà. Có Chánh niệm không cần đi đâu, hiền thánh tới làm bạn với chúng ta trong Chánh niệm.

Vì vậy, người có Chánh niệm ít thích nghe việc đời phải trái hơn thua, nhưng thích lắng lòng vào Chánh niệm. Thể hiện ý này, tôi thích làm bạn với người chết mà tôi chọn lựa được là những vị hiền thánh không còn trên cuộc đời này. Tôi muốn gặp Xá Lợi Phất, Ưu Ba Ly, Long Thọ, Trí Giả…, vì các ngài chia sẻ tri thức cho tôi.

Sống với pháp Phật, trong mùa an cư ráng giữ Chánh niệm, mỗi ngày dành nửa tiếng hay một tiếng thực tập thiền quán để tiếp xúc với các bậc hiền thánh, tuy các ngài đã qua đời, nhưng không chết, vì Chánh niệm không chết. Tu được sở đắc này thì bất tử. Thật vậy, Phật nói rằng xưa kia Ngài tu hành đạo Bồ-tát cảm thành thọ mạng, thâm nhập Pháp thân vĩnh hằng bất tử… Chánh niệm, Chánh định của chúng ta không bao giờ chết; nói cách khác, con người bất tử của chúng ta mới gặp được hiền thánh bất tử.

Tu hành vào thế giới này và đi xa hơn, chúng ta đến Niết-bàn. Đường còn xa, chúng ta cố gắng đi tới, kiếp này chưa được, kiếp sau đến thiên đàng rồi qua thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà và vào Niết-bàn nghỉ ngơi.

Hòa thượng Trí Hải nói với tôi rằng thầy ráng lo hoằng pháp, tôi về Cực lạc thăm Đức Phật Di Đà, sau này tôi và thầy sẽ gặp lại nhau cùng chung lo Phật sự. Hòa thượng này chuyên tu Pháp hoa. Ngài phát nguyện tụng 1.000 bộ kinh Pháp hoa để cầu nguyện đất nước hòa bình. Ngài mới tụng được 700 bộ thì nước nhà độc lập. Tôi nói còn 300 bộ kinh Pháp hoa để con tụng. Các thầy khác nghe vậy liền nói thầy làm Trưởng ban Hoằng pháp, việc còn nhiều, thầy có thì giờ đâu mà tụng 300 bộ kinh Pháp hoa.

Tôi hiểu ý Hòa thượng là tụng 700 bộ Pháp hoa mới thống nhất đất nước. Tiếp theo là tất cả những việc khó khăn, khổ sở do chiến tranh để lại là trách nhiệmchúng ta phải giải quyết để làm cho sinh hoạt của Giáo hội chúng ta được phát triển. Đó là hiểu được ý của danh tăng, hiền thánh.

Tôi nhắc các Phật tử cố gắng tu để được làm bạn với hiền thánh, chắc chắn cuộc đời chúng ta chẳng những kiếp này mà muôn kiếp về sau sẽ luôn được tốt đẹp hơn là làm bạn với người trần gian luôn gây phiền toái và khổ đau cho mình.


Thích Trí Quảng | Giác Ngộ
(Bài giảng ngày 16-7-2019 tại Việt Nam Quốc Tự, Q.10)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2760)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2664)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2331)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2418)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2553)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2614)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3074)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2523)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3014)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2877)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2622)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2394)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2694)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3276)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2563)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2058)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2955)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2727)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant