Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khách Trần

13 Tháng Giêng 202005:10(Xem: 5956)
Khách Trần
KHÁCH TRẦN

Thích Nữ Huệ Trân


chuaadida_full_qua-song-hay-bo-thuyen-be.jpg
Khách ghé quán trọ, nghỉ một đêm hay lưu tạm dăm ba bữa, rồi khách cũng đi. Người chủ quán không di chuyển, vẫn ở đó, nhận diện rõ ràng từng người khách đến và đi. Người chủ quán rất bình an, thanh thản như thế, trước khi khách đến cũng như sau khi khách đi. Người khách này ra đi, có thể, người khách khác lại ghé, rồi cũng lại đi. Chủ quán chẳng vì người trước hay kẻ sau mà di chuyển.

Hạnh phúc hay đau khổ, giầu nghèo hay sang hèn đều là khách trần, đến rồi đi.

Bản Tâm ta là chủ quán, trụ trong an tịnh, không đến cũng không đi.

Khách trần đến rồi đi là sinh diệt.

Bản Tâm không xao động, không di chuyểnthường hằng.

 

Tự thể của tâm, phải chăngKhông Tánh, là tự tánh Bát Nhã, không trong không ngoài, không nhơ không sạch, không thêm, không bớt… Chỉ có dòng tương tục của tâm, khi xúc cảnh, khởi phân biệt mà bị nhận diện là vui hay buồn, là hạnh phúc hay đau khổ mà thôi.

Khi tâm đạt được thể Không Tánh, tức là trụ được trong bản chất đích thực, thì vui buồn thế gian sẽ chỉ như những khách trần, như những hạt bụi luôn xô đẩy nhau, lao xao biến hoại trong hư không mà chẳng hề khiến hư không giao động.

          Lý thì như thế nhưng thực tế không hẳn hoàn toàn là thế.

Khi học đạo, chúng ta thường được quý minh sư nhắc nhở phải giữ ý buông lời, nắm lấy chủ ý để khi thực hành, tùy cảnh huống mà quán xét, mà hành xử, không vì chấp văn tự mà uổng phí bao năm đi tìm sự an tâm như ngài Huệ Khả, cho đến khi gặp Tổ Đạt Ma mới được khai thông, chứng ngộ.

          Cũng thế, chẳng phải trước mọi cảnh huống, tâm đều biểu lộ tự tại mới là tâm trụ nơi Không Tánh.

          Trong Đại Trí Độ nói rằng Bồ Tát Thường Đề thực hành Đại Bi Tâm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật rất thuần nhuyễn, uyên áo, nhưng nhìn thấy chúng sanh quá trầm thống trong biển khổ nên đôi mắt ngài lúc nào cũng đẫm lệ. Lệ này không phải lệ bi thương ủy mỵ nên lệ này chẳng thể làm xao động tâm an trụ. Lệ này khởi từ lòng bi mẫn chỉ khiến Bồ Tát xả thân nhiều hơn.

          Với tâm thế nhân thì ý niệm yêu thương thường hạn hẹp, vị kỷ. Khi yêu thương ai, ta phải được đáp lại, được gần gũi mới là hạnh phúc trọn vẹn. Nhưng tình yêu của Đức Thế Tôn thì khác. Thế Tôn yêu thương mọi người mọi loài bình đẳng nên suốt bốn mươi chín năm trên đường hoằng hóa, Thế Tôn đã độ cho bất cứ ai mà ngài có thể độ, từ em bé chăn trâu, người gánh phân, tên sát nhân, cho tới hàng vua chúa, vương tôn công tử.

Bước chân Thế Tôn tới đâu là quà tặng an lạc được trao tới đó. Kẻ nhận quà, nếu biết thụ hưởng thì dù Thế Tôn còn đó hay đi xa, quà tặng đã trở thành gia tài của người nhận.

Điều này thể hiện rất rõ trước phút Thế Tôn nhập Niết Bàn. Giữa rừng cây sa-la đầy hoa trắng, Thế Tôn đã ân cần nói với các đệ tử thân yêu quanh ngài rằng “Sau khi ta diệt độ thì Pháp và Luật mà ta để lại chính là ta, là đạo sư của các con. Tuân hànhtu tập theo Pháp và Luật đó chính là các con vẫn luôn ở gần ta, là ta không từng rời xa các con”.

          Nghe những lời dặn dò đó, tôn giả A Nan cũng phải nín bặt khi đang úp mặt vào thân cây, nức nở khóc. Nhưng sự nín bặt đó cũng chỉ là hình thức ngưng lệ chảy mà thôi chứ đâu thể ngưng được lòng buồn khổ.

Chẳng phải riêng ngài Anan mà hầu hết những đại đệ tử của Phật đều không thể dễ dàng chấp nhận sự bình thản, khi Thế Tôn ra đi, dù trên lý, các ngài đều đã hiểu rất rõ lời Thế Tôn căn dặn.

Lòng hoài vọng nhớ thương Tôn-sư đã lồng vào Pháp và Luật,  nên suốt thời gian dài sau đó, Tăng đoàn tuy vẫn học, vẫn tu mà vẫn âm thầm cảm nhận sự thiếu vắng hình bóng vị Thầy tột cùng tôn quý, là khoảng trống chẳng một ai có thể thay thế được.

Những đại đệ tử, những tỳ-kheo được thân cận và học hỏi trực tiếp từ Đức Phật mà còn khó ngăn cảm xúc như thế, huống chi chúng ta, những chúng sanh cách xa Phật hai ngàn sáu trăm năm, tất còn yếu đuối tới đâu!

Điều quan trọng là khi ta biết ta yếu thì hãy nhắm mắt, thở thật sâu, niệm hồng danh Đức Thế Tôn, xin Từ Phụ truyền năng lượng để ta trở về được chánh niệm.

Đừng nản lòng vì những lời trách cứ thiếu từ bi của thế nhân như “Phật dạy mọi sự vô thường, sao lại bi lụy ở những cái vô thường vậy?” hoặc những câu hỏi thiếu thiện chí tìm cầu mà chỉ nặng phần gay gắt như “Quý vị được dạy là bản- thể-Như-Lai vốn thanh tịnh, sao còn phải tu để được thanh tịnh?”

Chúng ta phải tập quen với tâm thế gian này, để nhẹ nhàng phân giải rằng, bản-thể-Như-Lai quả là vốn thanh tịnh nhưng vì bị vô minh che lấp, duyên huân tập theo vô minh mà sanh ra hiện tượng khổ đau phiền não.

 Đó là trạng thái bản thể duyên ra hiện tượng.

Chúng sanh luôn ở trong trạng thái  này nên chúng sanh cần phải nỗ lực tu, vận dụng Tăng, Thượng, Huệ để đối trị tà kiến, ngã mạntrở về bản thể trong sáng của mình.

Thành Phậtchuyển hóa trí tuệ, đạt tới vô thượng Bồ-Đề và giữ được tâm này thường hằng, không hề đứt đoạn.

Có lẽ Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất không nhận mình là giáo chủ, là thánh thần, là cao tột, khác biệt với mọi người. Ngài chỉ nhận là mình đã thấy được lẽ vô thường, đã nhận ra bản chất đích thực cao quý trong mỗi tấm thân tứ đại vô thường, đã tìm ra cai ngục tên là Vô Minh, hằng nhốt chúng sanh trong luân hồi tăm tối.

Ngài chỉ là người thấy trước, nên ân cần chỉ dạy lại cho những ai muốn thoát khỏi quỹ đạo khổ đau này. Những ai TIN lời ngài, NGUYỆN theo đường ngài đi, PHỤNG sự tuân thủ những pháp môn ngài chỉ dạy và HÀNH trì nghiêm chỉnh những gì học hỏi được, thì người đó cũng bình đẳng với ngài. Ngài là Phật thì người đó cũng sẽ là Phật.

Lời ngài nói trung thựcđơn giản thế thôi.

Hai ngàn sáu trăm năm, Đức Phật đã là ông chủ quán nhìn tường tận nhất, những khách trần đến rồi đi, sinh rồi hoại. Chủ quán chưa hề rời quán vì ông thường hằng hiển hiện sáng ngời qua Pháp và Luật ông để lại.

Lành thay, những khách trần sớm biết mình là bụi để kịp dừng lại lao  xao mà tĩnh lặng với hư không trong vô sanh bất diệt.

Đó là những chúng sanh đã giác ngộ, chuyển hóa được thân phận Khách Trần của mình để trở thành Chủ Quán.  

          Không nhớ mấy câu thơ không đầu không cuối này từ đâu, do vị nào

viết, nhưng chính cái chất liệu lơ lửng này lại khiến ý thơ tràn đầy bát ngát. Xin tác giả cho phép ghi lại đây, thay búp tay sen để được dừng bút:

                   “Tâm sầu lắm ư?

                   Thôi đi nhị kiến,

                   Chẳng còn ba, tư

                   Trên con đường thật

                   Người về với NHƯ”

Thích Nữ Huệ Trân

(Thời khắc giao mùa)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3629)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3250)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3315)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2913)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3390)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3720)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3545)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3544)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2875)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3548)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3063)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3586)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3392)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3376)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3811)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3886)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3255)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3594)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3289)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3117)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3154)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4564)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3541)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3090)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4424)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3350)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3936)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4502)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3761)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3232)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3487)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3065)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3275)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3753)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3737)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3314)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3194)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3172)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3101)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3522)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3364)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3335)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3429)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3910)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3384)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3743)
Thật là một thảm họa khi tôi dự khóa tu thiền lần đầu tiên. Lưng tôi yếu sau nhiều năm ngồi gù lưng trước máy tính và ...
(Xem: 3397)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3441)
Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian,
(Xem: 4412)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
(Xem: 3432)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant