Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Kinh

02 Tháng Bảy 202019:34(Xem: 4717)
Tâm Kinh

TÂM KINH

Tiểu Lục Thần Phong

Đời Như Tấm Gương Soi







 Âm thanh tụng Tâm Kinh thì thầm lan toả trong trời đất, làn sóng âm nhè nhẹ xao xuyến xuyên thấm vào lòng người và cả phi nhân. Dòng âm thanh Tâm Kinh  như suối nguồn róc rách, laị cuồn cuộn như nước sông chảy ra đại dương. Người tụng Tâm Kinh như nhập vào một cảnh giới khác, trong phút giây thoát ra khỏi những vướng bận dính mắc của cuộc đời này. Người tụng Tâm Kinh hoà cả thân tâm vào thanh âm, vào ngôn từ kể từ khi khởi tụng. Nếu người ca sĩ nhạc Rock&Roll say sưa hoà mình vào âm thanh, ca từ một cách hoàn toàn, trong lúc diễn hất tóc, nhảy nhót, hú hét hết mình như thế nào thì người tụng Tâm Kinh cũng toàn tâm, toàn ý, toàn thân thăng hoa trong Tâm Kinh như thế ấy!

 Rồi một ngày kia, mình chợt giật mình! Mình tụng Tâm Kinh nhuyễn như cháo chảy, như nước cuốn hoa trôi, như chim hót… Mình say sưa trong ngôn từ văn tự nhưng liệu mình có hiểu thật không? Có thẩm thấu gì chăng?

 Quán tự taị, quán cái gì mà tự taị? taị sao quán mới tự tại? ai quán?  Chao ơi! bao nhiêu câu hỏi nảy ra. Quán là xem xét một cách tường tận kỹ lưỡng, quán có sâu có cạn, có nhanh có chậm, đời có bao nhiêu pháp thì quán có bấy nhiêu đề mục để quán. Quán sơ khởi thì xem hơi thở vaò ra thế nào, mình thở biết mình đang thở, đang sống với phút giây hiện tại bây giờ và ở đây, không hối tiếc quá khứ, không tầm cầu tương lai, không dính mắc hiện taị.

 Quán thân bất tịnh để biết sự thật thân này, nó là cái tuí da thôi thối, hàng ngày tiết ra bao nhiêu thứ dơ bẩn: mắt có cứt ghèn, tai có ráy tai, cứt mũi, cức răng, đờm, nhớt, hàng triệu lỗ mồ hôi tiết chất hôi, hạ thân tiết ra phẩn, niếu…Thật sự bất tịnh, chẳng sạch chút nào. Bề ngoài dù có xinh đẹp thế nào đi nữa nhưng sự thật vẫn cứ là đãy da thối mà thôi, quán thân bất tịnh để mà buông bỏ, đừng chấp thân này. Quán thọ là khổ, càng thọ nhận càng khổ, cho dù có thứ thọ vui nhưng rốt cuộc vẫn đi đến khổ, càng thọ càng dính mắc. Cuộc đời này sắc dục , vật chất có sức hấp dẫn, quyến rũ,, dụ khị rất mãnh liệt. Càng thọ càng thèm khát, càng không thể thoã mãn nên vì thế mà khổ. Ngay cả thọ nhận một lời chê cũng đủ khổ rồi. Khi thọ nhận một lời khen có vui đấy nhưng thực chất nó cũng chỉ là làn sóng động của âm thanh, truyền từ lưỡi người nói đến tai người nhận, nó không thật, khi thọ nhận lời khen mà không được đối đãi tương ưng hoặc đối đãi ngược với lời khen thì khổ ngay chỗ đó. Bởi vậy quán thọ là khổ để mà xả thọ, phi thọ , mức độ cạn sâu, cao thấp tuỳ vào năng lựccông phu của mỗi người. Quán tâm vô thường, tâm vốn vô hình vô tướng  nhưng có sức tác động động ghê gớm, thăng hay đọa cũng từ một tâm, tạo thành hay hủy hoại cũng nó. Cái tâm sáng nắng chiều mưa, nay yêu mai ghét, phần lớn chúng ta đều sống với cái tâm mê mờ, vọng tưởng và nó làm cho chúng ta quay cuồng điên đảo  mà không hề hay biết. Tâm vọng biến hoá hư ảo khôn lường, nó như tấm gương phủ đầy bụi đất, khi nào lau sạch thì mới có thể hiện bóng trăng sao, sơn hà, vũ trụ. Ấy là lúc vọng đã thành chơn, tâm bấy giờ tròn đầy và diệu dụng như tấm gương sáng. Quán pháp vô ngã, các pháp vốn không có cái ngã độc lập, tất cả là do duyên sanh, mà duyên sanh thì cũng duyên mà diệt, vì duyên mà tụ hợp nhưng rồi cũng vì duyên mà chia ly, tụ tán không hạn kỳ. Khoa học ngày nay chứng minh rõ ràng:” năng lượng không tự sinh ra cũng không tự mất đi. Vật chất cũng thế, nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác... ngay cả thời gian cũng không thật, không gian cũng không thật…”  Không có một cái gì tồn tại độc lập, một cái ngã độc lập cả. Ví như một cái nhà, nó được cấu thành từ vô số những nguyên tố của cát, đất, gỗ, đá, sắt, kíếng, nước, lửa, sức người…khi đủ duyên thì nó đủ duyên hợp thành thì ta gọi là cái nhà, khi duyên hết mỗi thứ laị tan hoại thành những nguyên tố ban đầu thì giờ chẳng có cái gì để gọi là  cái nhà cả.

 Quán sâu hơn, công phu hơn, ở mức độ uyên thâm hơn thì quán tướng như vậy, quán thể như vậy, tánh như vậy, lực như vậy, dụng như vậy… cho đến bổn mạt cứu cánh như vậy. Một khi đã quán từ thấp đến cao, từ thô đến tế, từ cạn đến sâu thì mức độ tự tại cũng sẽ tương ưng theo. Ai cũng có thể quán, tùy theo căn cơtrình độ của mình, quán mọi lúc mọi nơi, quán lúc ăn, lúc chơi, lúc làm, lúc nghỉ, lúc lái xe… chứ không phải đợi đến lúc ngồi xếp bằng trước tôn tượng Thế Tôn mới quán. Quán ở trong tâm, thật quán thì hoàn cảnh bên ngoài không còn là vấn đề quan trọng, quán cho đến khi mà ngủ mà cũng quán thì lúc ấy siêu việt, thượng thừa.

 Bồ Tát nhờ quán mà tự tại, Bồ Tát là ai? , ai là Bồ Tát? Bồ Tát là bậc hữu tình đã giác ngộ, mà cũng là bậc giác ngộ cho các hữu tình chúng sanh. Bồ Tát là người làm được việc mà người khác không làm được. Bồ Tát là nguời làm việc vì lợi ích cho chúng sanh mà không có tâm tư lợi hay mong cầu đáp trả… Ai cũng có thể làm Bồ Tát, ai cũng có thể tự tại như Bồ Tát, muốn vậy thì phải quán, tất nhiên từ sơ phát tâm cho đến khi thật sự tự tại như Bồ Tát thì là cả một quá trình dài lâu, gian nan.

 Bồ Tát tự tạiBồ Tát quán, Bồ Tát hành thâm cái trí huệ bát nhã. Trí huệ bát nhã sáng suốt viên mãn như mặt nhật soi chiếu tường tận mọi bản chất thật tướng của sự việc và sự vật. Trí huệ bát nhã như gươm bén cắt đứt mọi ràng buộc phiền não hệ lụy. Bồ Tát quán chiếu trí huệ bát nhã thấy rõ thật tướng của vạn pháp thế gian hay xuất thế gian. Thấy rõ bản chất của năm uẩn này vốn là không, không phải không có mà là không thật có. Nó không phải là năm uẩn thật có và độc lập. Nó là do duyên hợp mà sanh ra. Sắc thân do vô số tế bào hợp laị. Nó từ tinh cha huyết mẹ, vay mượn cơm gạo từ đất nước, hơi thở là gió, nhiệt độ thân thể là lửa. Nó là sự kết hợp của bốn yếu tố: đất - nước – gió - lửa mà thành. Nó không phải là một thực thể độc lập, cũng như vạn vật vậy, đủ duyên thì tụ thành hết duyên thì tan hoại đi, một khi gió không ra vô nữa thì các tế bào tan hoại và sắc thân laị trả về với đất - nước- gió - lửa. Sắc thân không thật có thì thọ, tưởng, hành, thức có thật sao? thọ, tưởng, hành, thức nó gá tạm vào sắc thân một thời gian. Sắc thân và tâm của một kiếp sống là vừa thọ nghiệp mà cũng vừa tạo nghiệp. sắc thân chỉ là công cụ, tâm ý nó mới là kẻ xúi sắc thân. Một khi sắc thân tan hoại thì thọ, tưởng, hành, thức ở đâu? nghiệp lực nó lôi kéo, những chủng tử thiện – ác trong A laị da thức dẫn dắt thức vào một cảnh giới khác tương ưng với nghiệp thiện ác đã làm và cũng sẽ mang một hình hài sắc thân khác, tất nhiên cũng tương ưng với nghiệp thiện –ác đã làm trong quá khứ.

 Bồ Tát quán trí huệ bát nhã một cách thâm sâu nhất, thấy được ngũ uẩn naỳ là không. Bồ Tát cũng chẳng vướng vào sắc thân vật chất và cũng không dính mắc vào thọ, tưởng, hành, thức. Sắc thân không thật, thọ, tưởng, hành thức không thật thì khổ ách thật sao? chỗ nào để mà thọ khổ ách? Bồ Tát đã vắng bặt mọi trạng thái tâm lý, đã hoàn toàn tịch tịnh, hoàn toàn tự tại.

 Quán Bồ Tát cũng là biệt hiệu của  Bồ Tát Quán Thế Âm. Một vị Bồ Tát trợ thủ đắc lực của Phật A Di Đà. Ngài nói chú Đaị Bi vì chúng sanh. Ngài quán âm thanh bi, âm thanh khổ của thế gian, tùy loại mà hiện ứng thân để giáo hoá, để hoá độ. Người thế gian có thể hình dung ngài với những hình tướng mà tâm ý mình thích: Thân tướng hai tay, bốn tay, tám tay, ngàn mắt ngàn tay, các cánh tay cầm đủ thứ bát bửu. Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ quán và hành thâm trí huệ bát nhã mà tự tại, nhờ quán chiếu mà thấy ngũ uẩn vốn không thậttự tại. Chúng sanh cũng có thể, ai quán thì người đó tự tại. Bồ Tát, Phật không thể quán giúp cũng như không thể tự tại giúp cho chúng sanh được. Chúng sanh phải tự mình quán để mà vượt qua khổ ách. Con đường, phương cách đã có rồi, cứ thực hành quán sẽ có lúc tự tại. Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói rõ ràng:” Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành” . Mọi người đều có thể thành Phật, thành Bồ Tát, thành thánh hiền… Lý thuyết là thế, phải thực hành chứ không thể nói suông, phải hành miên mật, liên lỉ, phải tinh tấn dài lâu thì sẽ có một ngày đắc tự taị như Bồ Tát.

 Chúng mình mê muội lâu rồi, chìm đắm trong ngũ dục bao đời nay, chấp cái thân này là thật, chấp trước đủ thứ, tạng thức chứa đầy chuyện sắc dục, ăn uống, huởng thụ, mưu cầu này nọ…Giờ bắt đầu sơ phát tâm học Phật, thực hành quán, chỉ mới sơ sơ bước nhỏ ban đầu nên chẳng ăn thua gì, hễ đụng việc là lập tức nổi tham, sân,si liền. Mới quán chút chút ban đầu cũng giống như người tắm bằng nước lã, chỉ rửa được chút ít bụi bặm nên chẳng ăn thua gì. Điều đáng nói là chúng mình may mắn gặp được Phật pháp, biết mến mộ pháp, nghe pháp và hành. Quán hơi thở, quán thân, thọ, tâm, pháp… dẫu sơ khởi ban đầu nhưng ít nhiều cũng lợi lạc thân tâm. Biết sợ ác pháp, biết hạn chế không tạo thêm ác nghiệp…

 Chúng mình kể cũng may mắn biết bao, thế gian này có bảy tỷ người nhưng có bao nhiêu người biết Phật pháp? laị trong số ấy có bao nhiêu người chịu nghe pháp và chịu tin và làm theo? cứ thế mà loại suy dần dần thì thật sự còn laị không nhiều. Bởi vậy mà năm xưa khi Thế Tôn còn tại thế ngài đã nói:” Nhơn thân nan đắc, Phật pháp nan văn”. Được thân người, đầy đủ lục căn, laị biết phật phápthực hành thì quả là “ nan trung chi nan”

 Nhà Phật vẫn nói không có cái gì tự nhiên cả. tất cả đều có duyên do, chúng ta biết Phật pháp và chịu hành trì ấy là nhờ những chủng tử Phật pháp từ nhiều đời trước, nay nhờ cơ duyên thuận lợi mà phát sinh và tăng trưởng. Hàng Phật tử chúng mình, nhất là những người tu học theo truyền thống Bắc Tông. Có lẽ ai cũng thuộc Tâm kinh, mỗi khóa lễ thường bắt đầu vào là Đaị Bi và ra là Bát Nhã. Càng tụng tâm Kinh càng thấy ảo diệu, càng lúc càng thâm nhập (dù chỉ phút giây cao độ hứng khởi khi tụng Tâm Kinh), càng tụng càng thấy khoan khoái lạ thường, không thấy mình tụng, không thấy tâm kinh để tụng, dường như chỉ có làn sóng âm  xao động trong đất trời, xuyên suốt thân tâm, không còn cảm nhận thời gian,không gian ( sát na hoan hỷ lúc tụng Tâm Kinh)

 Hàng Phật tử sơ cơ như chúng mình, dẫu chưa biết tự tại là gì, chứng đắc là chuyện xa vời vợi nhưng những phút giây hoan hỷ tụng Tâm Kinh cũng là những phút giây tạm dừng sanh diệt gữa thế gian này. Những phút giây hoan hỷ thọ lạc với văn tự Tâm kinh, văn tự bát nhã chứ chưa phải thật tướng cũng là phút giây qúy báu và đáng sống ở thế gian này.

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 062020

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2219)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2521)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2345)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2659)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2433)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3246)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2532)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2535)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2191)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3046)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2645)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2703)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2985)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2586)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4083)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3062)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3302)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2285)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2499)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2997)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2604)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2627)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2382)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2472)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2683)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3264)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2594)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2047)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2900)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2936)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2702)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2508)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2776)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant