Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cư SĩPhật Pháp

23 Tháng Tám 202020:25(Xem: 4076)
Cư Sĩ Và Phật Pháp

CƯ SĨPHẬT PHÁP

Tiểu Lục Thần Phong

 Cư Sĩ Và Phật Pháp

Đạo Phật ra đời và phát triển đến nay cũng đã hơn hai mươi lăm thế kỷ, ban đầu từ miền bắc Ấn Độ, sau đó lan truyền toàn xứ Ấn và phát triển sang các nước Trung Á, Nam Á, Bắc Á… và đến Âu, Mỹ hôm nay. Phật giáo truyền đến đâu thì kết hợp với văn hoá và đặc tính riêng của địa phương mà hình thành nên những truyền thống, tông phái Phật giáo khác nhau. Các tông phái có cách hành trì, hình thức y phục khác nhau, thậm chí một số nhìn nhận khác nhau nhưng tất cả cùng tôn thờ đấng sáng lập đạo là Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng tôn kính tam bảo: Phật – pháp – tăng, cùng thống nhất cái cốt lõi của đạo Phật là: Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ đạo…Nói một cách tổng quát có ba nhánh chính: Tiểu thừa ( thịnh hành ở các nước Nam Á), đaị thừa ( thịnh hành ở các nước Bắc Á) và Mật tông Kim Cang thừa ( thịnh hànhtây Tạng và vùng Himalaya)

Đạo Phật cũng như mọi pháp khác của thế gian, không thể nằm ngoài quy luật: Thành - baị - hoại – không hay Sinh - trụ - dị - diệt. Trải qua hai mươi lăm thế kỷ, đã có không biết bao nhiêu thăng trầm, xáo trộn, khủng hoảng thậm chí bị tiêu diệt hẳn như ở Ấn Độ, vùng Trung Á (Afghanistan, Pakistan, khu vực rộng dọc theo con đường tơ lụa cổ xưa…)

Đạo PhậtViệt Nam cũng thế, phát triển rực rỡ nhất vào thời Lý - Trần, sau đó suy vi kéo dài nhiều trăm năm ( thời hậu Lê, thời Pháp thuộc, thời Ngô triều…). Dù thăng trầm vậy, nhưng đạo Phật gắn bóđồng hành với lịch sử dân tộc  hơn hai ngàn năm nay.

Trong đạo Phật chia làm hai mảng: xuất giatại gia, có thể ví rằng xuất gia (tăng, ni) là những chuyên viên hoằng pháp chuyên nghiệp, thành phần tại gia là những người hoằng pháp tài tử, nghiệp dư. Phật tử tại gia cũng có thể ví như là cơ sở hạ tầng, thành phần xuất gia là kiến trúc thượng tầng. Hạ tầng cơ sở có vững chắc và mạnh mẽ thì thượng tầng kiến trúc mới phát triển và xây dựng được huy hoàng, nếu không có hạ tầng cơ sở thì thượng tầng kiến trúc cũng khó mà tồn tại hay phát triển được.

Khi Thế Tôn còn tại thế, ngài rất hiểu điều này, bởi vậy ngoài việc thuyết pháp cho những vị xuất gia. Đức Phật còn chú ý nhiều đến hàng Phật tử tại gia, có nhiều những bài pháp, những bài kinh dành cho hàng Phật tử tại gia như: Kinh Hạnh Phúc, Thắng Hạnh, Châu Báu, Từ Bi, Suy Niệm Về Nghiệp….Đặc điểm những bài kinh này rất ngắn, đơn giản, dễ thuộc, dễ nhớ phù hợp căn cơ của người tại gia, phù hợp khả năng lãnh hội của đại chúng, quan trọng là có thể áp dụngthực hành ngay trong đời sống thường nhật. Trong những thời thuyết pháp, đức Phật có lần nói về bốn pháp an lạc cho hàng Phật tử tại gia, đây có thể coi như kim chỉ nam cho người Phật tử sống đời an lạc, sống đúng chánh pháp.

1. Phương tiện đầy đủ:

 Người Phật tử tự nuôi sống mình và gia đình bằng những nghề như: làm nông, buôn bán, phục dịch, viết sách, nghệ thuật… luôn trau dồi cho ngày một tinh xảo, hoàn thiện; luôn siêng năng làm việc và học hỏi để phát triển

2. Thủ hộ đầy đủ:

 Người Phật tử có tiền bạc, lúa gạo, của cải, tài sản…do nỗ lực làm việc mà thu hoạch được, tự mình làm ra, làm đúng như pháp. Người Phật tử biết giữ gìn để của cải tài sản không bị mất mát, biết phòng thủ trước những nạn: vua quan, nước, lửa, giặc, trộm, oan gia trái chủ…

3. Thiện tri thức đầy đủ:

 Người Phật tử không mất điều độ, không buông lung, không dối trá, không hung hiểm. Người Phật tử phải biết khéo léo làm cho sự sầu khổ chưa sanh sẽ không sanh; sự sầu khổ đã sanh có thể mau khai mở, tỉnh giác; những điều vui thích chưa sanh sẽ sanh nhanh chóng; Những điều vui thích đã sanh sẽ giữ gìn không bị mất

4. Chánh mạng đầy đủ:

 Tài sản, của cải bảo quản chu toàn, cân đối việc thu và chi, không nhập nhiều xuất ít và cũng không nhập ít xuất nhiều. Người Phật tửtiền của không chi xài phóng túng một cách quá trớn, chi cho ham muốn ngu si, không nghĩ đến ngày sau, việc này giống như “ Quả ưu đàm bát không có hạt giống”. Người Phật tửtiền của mà không dám chi xài, người ở gần sẽ nói:” Người ngu si này như con chó chết đói”. Vì vậy người Phật tửtiền của phải tự mình cân đối xuất nhập ngang nhau.

Bốn pháp này mang laị an lạc ngay hiện tại cho người Phật tử tại gia. Bốn pháp này được nói trong kinh Tạp A Hàm, người Phật tử taị gia áp dụng sẽ sống an lạc, sẽ có điều kiện để hộ phápduy trì niềm tin nơi Phật pháp. Có thể nói rằng, bốn pháp này không chỉ áp dụng cho người Phật tử tại gia, mà có thể áp dụng cho tất cả mọi người trên thế gian này. Bốn pháp này là sự tỉnh thức, sự khôn ngoan nếu ai áp dụng thì người ấy sẽ đắc được an lạc ngay trong cuộc sống hiện tại. Nếu bỏ yếu tố tôn giáo ra thì bốn pháp này có thể coi như mẫu mực đạo đức, là cái mức độ hành xử căn bản của con người, phù hợp với pháp luật thế gian ( dù đó là hình thái nhà nước nào)

Kinh Phước Đứcbản kinh ngắn, rất dễ học thuộc và dễ áp dụng trong đời sống, có thể nói là bản kinh thích hợptiêu biểu cho hàng Phật tử tại gia. Sở dĩ có kinh này là do sự cầu kiến tham vấn của một vị thiên. Đức Phật dạy:

Lánh xa kẻ xấu ác

Được thân cận người hiền

Tôn kính bậc đáng kính

phước đức lớn nhất

 

Sống trong môi trường tốt

Được tạo tác nhân lành

Đước đi trên đường chánh

phước đức lớn nhất

 

Có học, có nghề hay

Biết hành trì giới luật

Biết nói lời ái ngữ

phước đức lớn nhất

 

Được cung phụng mẹ cha

Yêu thương gia đình mình

Đước hành nghề thích hợp

phước đức lớn nhất

 

Sống ngay thẳng bố thí

Giúp thân bằng quyến thuộc

Hành xử không lỗi lầm

phước đức lớn nhất

Bài kinh ngắn gọn, cô đọng, từ ngữ đơn giản dễ hiểu, thể lệ thi - kệ dễ thuộc, có những bản dịch khác dài hơn một tí nhưng nội dung cũng gói trọn những điểm chính như thế. bản kinh này rất thích hợp cho hàng Phật tử tại gia, thích hợp cả với người khác tôn giáo, không tôn giáo. Ngoài yếu tố tôn giáo ra, bản kinh này có thể coi như  luân lý đạo đức căn bản, là lối sống, cách hành xử của con người. Đức Phật đã chỉ dạy rõ ràng, còn có thực hành hay không là  vấn đề chính ở chúng ta, cứ đi sẽ đến, cứ thực hành đúng pháp như thế sẽ an lạc.

Đôi khi vẫn có người hỏi: Người Phật tử có nên làm giàu không? tất nhiên là được và nên, làm giàu không có gì sai trái, miễn là không phạm pháp, phạm luật thế gian và nhất là phải: Chánh mạng. Có những nghề nghiệp trong xã hội được pháp luật thế gian cho phép nhưng lại là tà mạng, chẳng hạn như: giết mổ gia súc, mua bán súng đạn, mua bán chất gây nghiện ở mức độ nhẹ ( marijuana, cần sa), mua bán rượu, cờ bạc, khai thác tàn haị môi trường tự nhiên, du lịch tình dục ( sextour), …Người Phật tử làm giàu nên tránh những nghề tà mạng, vì một khi làm thì sẽ tạo nghiệp nặng nề về sau, cái giàu như thế thì thật không đáng để trả giá vĩnh kiếp luân hồi. Người Phật tử làm giàu để nuôi thân, nuôi gia đình, giúp đỡ những người cùng khổ, cứu tế xã hội, hộ trì Phật pháp… cái giàu như thế thì ý nghĩa biết bao, lợi lạc biết bao. Ông Cấp Cô Độc là một Phật tử tại gia, một đại phú hào thời đức Phật còn tại thế. Ông ấy là tấm gương cho hàng Phật tử muôn đời noi theo. Người Phật tử làm giàu, đúng pháp luật thế gian laị chánh mạng nữa thì tuyệt vời biết bao. Trong bốn pháp mang laị an lạc kể trên cũng đã minh định rõ ràng, làm giàu đúng pháp, chánh mạng sẽ mang laị an lạc.

Trong hàng cư sĩ hay Phật tử tại cũng có những tấm gương vô cùng xuất sắc. Thời đức Phật tại thế có ông trưởng giả Cấp Cô Độc, một vị hộ pháp đắc lực, một con người nhân hậu trang trải tình thương cho những người khốn cùng trong xã hội. Sau đó có vua Asoka, một vị hộ pháp, hoằng pháp vĩ đaị của Phật giáo, nhiều hoàng tử và công chúa con của ông đã xuất gia. Chính họ đã trở thành thầy tổ, mang Phật giáo đến Tích Lan ( Sri Lanka) và các nước Nam Á khác. Bên Trung Hoa cũng có những vị cư sĩ lớn như vua Lương Võ Đế, Võ Tắc Thiên, đặc biệt nhất, xuất sắc nhất có lẽ là cư sĩ Bàng Long Uẩn và cả nhà ông, tương truyền cả nhà ông đều đắc đạo, đều tự tại thị tịch, cứ như là du hí nhân gian.

Phật giáo Việt Nam có thể nói là bắt đầu từ thiền sư Khương Tăng Hội, Luy Lâutrung tâm Phật giáo lớn thời bấy giờ, từ thế kỷ thứ mười trở về trước thì chúng ta có rất ít tài liệu, nên không biết đến những tấm gương cư sĩ. Từ thế kỷ thứ mười trở về sau thì sử sách trong đạo ngoài đời đều ghi nhận những tấm gương cư sĩ xuất sắc. Vua Lý Thái Tổ ( Công Uẩn) có thể coi như một Phật tử tại gia lớn nhất vậy, ông cũng như các vị vua sau này của thời đại Lý - Trần hết mình phò hộ Phật giáo: xây chùa, tô tượng, đúc chuông, độ tăng…Ngoài các vị vua, còn có vương tôn công tử, đại thần, hoàng thân quốc thích, phú hào…phần nhiều đều là cư sĩ tại giahết lòng hộ trì Phật pháp. Thời cận đạihiện đại có rất nhiều những tấm gương cư sĩ điển hình như: bs Lê Đình Thám, Thiều Chửu, Đoàn Trung Còn, Trần Trọng Kim, Mai Thọ Truyền… gần hơn nữa có rất nhiều những bậc cư sĩ vừa nhiệt tâm, vừa tài giỏi có thể kể: Tâm Tấn, Tâm Huy, Tâm Quang, Tâm Lễ, Tâm Diệu, Nguyên Thọ, Hoàng mai Đạt, Minh tiến… còn nhiều và rất nhiều nữa. Hàng cư sĩ tại gia này là cơ sở vững chải để thượng tầng kiến trúc phát triển việc hoằng dương Phật pháp.

Nhân việc nói về các pháp an lạc cho hàng Phật tử tại gia, cũng như lạm bàn một chút về cư sĩ. Nhân tiện đây cũng xin nhắc đến hai tấm gương Phật tử tại gia người Mỹ và người Úc ( Australia). Ông Henry Steel Olcott là một Phật tử tại gia người Mỹ, ông có công lớn trong việc phục hưng Phật giáo ở Sri lanka và hoàn thiện lá cờ Phật giáo, nhờ đó mà đạo Phật trên toàn thế giới hôm nay có chung một lá cờ ( một số nước có sự thay đổi màu lá cờ, để dùng riêng trong nước họ, ví dụ: Myanmar đổi màu cam ra màu hồng). Ông Henry Steel Olcott là một đaị tá hải quân Mỹ, ông đã trở thành một vị hộ pháp đắc lực của Phật giáo. Người thứ hai là ông Ian Green, một Phật tử tại gia người Úc ( Australia), cả hai vợ chồng đều mộ Phật, học Phật và tu Phật. Chính ông đã khởi xướng, bỏ công sức, của cải để hoàn thành pho tượng Phật ngọc hoà bình. Pho tượng được mang đi khắp thế giới cho Phật tửloài người chiêm ngưỡng, đây là một sự kiện lớn làm nức lòng hàng trăm triệu người con Phật, đã làm khơi dậy một làn sóng ngưỡng mộ hướng về Phật pháp. Sau khi hoàn thành sứ mệnh vòng quanh thế giới, pho tượng Phật ngọc đã được an vị vĩnh viễn ở ngôi tháp Great Stupa of Universal (Australia).

Hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua, đạo Phật bây giờ có mặt khắp năm châu, ngưởi quy y tu học đủ các sắc dân. Đạo Phật đem ánh sáng trí huệ đến cho con người, làm thức tỉnh con người, trang trải tình thương đến con người và muôn loài, cổ vũ hoà bình. Những người con Phật vì nhiều lý do chưa thể xuất gia thì vẫn có thể tu học tại gia, vẫn có thể tinh tấn pháp học, pháp hànhhộ trì Phật pháp. Các bậc xuất gia đẩy mạnh hoằng pháp và hàng Phật tử tại gia hộ trì Phật pháp, nhờ thế Phật pháp sẽ còn lan toả khắp nơi nơi.

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 082020

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2475)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2456)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 3041)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 2090)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1971)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
(Xem: 2286)
Phật tử chúng ta được biết rằng, đã quy y Tam bảothọ trì năm giới ...
(Xem: 2104)
Hơn nửa đời người, hay cả cuộc đời, nếm đủ đắng cay buồn tủi, niềm vui thì khiêm tốn, nỗi buồn quá mênh mông. Chòng chành theo con thuyền thân phận, lúc tàn khoảnh khắc theo cổ máy thời gian, nhìn lại trong rêu phong tĩnh lặng, trên khuôn mặt nhiều nếp chập chùng của ưu phiền, mới hiểu rằng “Ta có đại hoạn do ta có thân. Nếu ta không thân sao có đại hoạn”.
(Xem: 2092)
Khi mà vật chất chi phối cuộc sống, khi mà kinh tế làm chủ đạo nồng cốt kiến trúc xã hội, đạo đức truyền thống dân tộc và nhân cách con người trở thành thứ yếu.
(Xem: 2407)
Đạo Phật nói cuộc đời là biển khổ mênh mông không có ngày thôi dứt, vì nhân loại lúc nào cũng...
(Xem: 2256)
Gần đây một báo cáo Trung tâm nghiên cứu Pew, bể tư duy lớn thứ ba ở Washington, DC, dự đoán rằng một số tôn giáo lớn trên thế giới sẽ mở rộng...
(Xem: 2313)
Sống trong tư duy phân biệt đối đãi ở đời không chuyện gì không phải thị phi (đúng sai).
(Xem: 2391)
Hằng năm vào ngày 28 tháng 6 lần lượt mỗi chùa tại Đức tổ chức sinh nhật cho Hòa Thượng Phương Trượng Tổ đình Viên Giác.
(Xem: 2095)
Từ lâu, trong đời sống an tịnh, mỗi hành giả đều tự biết làm đẹp mình bằng hạnh đầu đà giữ giới.
(Xem: 2226)
Thế giới quan Phật giáo chỉ ra mối quan hệ cơ bản của mọi sự vật hiện tượng là quan hệ nhân quả.
(Xem: 2358)
Ngày nay, thiền định không những được biết đến qua tên tuổi các vị Thiền sư, qua những công án thiền, mà còn thực sự đi sâu vào đời sống tu tập nội tâm của mỗi người.
(Xem: 2275)
Rốt cuộc một mình. Một mình thôi. «Trời cao đất rộng, một mình tôi đi, một mình tôi đi... Đời như vô tận. một mình tôi về, một mình tôi về... với tôi!»
(Xem: 1903)
Bao tao nhân, mặc khách; bao ngôn ngữ của con người đã không tiếc lời ca tụng về Mẹ. Mẹ của tôi. Mẹ của anh. Mẹ của con và Mẹ của tất cả mọi người.
(Xem: 2354)
Tình mẫu tử, một chủ đề quá quen thuộc, không chỉ là mạch nguồn cảm hứng bất tận trong...
(Xem: 2248)
Cứ mỗi độ Vu Lan về, những người con Phật lại nao nao lòng.
(Xem: 2440)
Khi nói đến chữ Hiếu chẳng mấy ai lấy làm xa lạ, vì nó đã trở thành truyền thống rất quen thuộcăn sâu vào tâm trí ngay khi còn bé.
(Xem: 2440)
Khi tu hành được một thời gian, có người thì ngày càng tăng trưởng đạo lực, Giới - Định - Tuệ thêm lớn nhưng ngược lại có người thì suy giảm, thối thất.
(Xem: 2572)
Quán niệm về nhân duyên hình thành đời sống chúng ta, hình thành con người xã hội, hình thành đất nước, và hình thành thế gian. Tất cả cuộc hình thành này đều từ nhân duyên.
(Xem: 2277)
Một buổi sáng, trước tiệm bán hoa, một thanh niên ngừng xe, định vào tiệm đặt mua một chậu lan, gửi tặng sinh nhật mẹ
(Xem: 2069)
Hít vào tâm tỉnh lặng Thở ra miệng mỉm cười An trú trong hiện tại Giây phút đẹp tuyệt vời.
(Xem: 2143)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2287)
Kinh Phật chỉ nói lên sự thật để cho mọi người cùng suy xét mà sống sao cho được hạnh phúc an lạc, lợi mình, lợi người.
(Xem: 2120)
Theo truyền thống ở châu Á, thiền địnhgiác ngộlãnh vực của những người xuất gia và người tu luyện yoga
(Xem: 2196)
Mọi người ai cũng biết đạo Phậtđạo trí huệ, từ bi, tôn trọng sự sống của muôn loài.
(Xem: 3704)
“Người ngu nghĩ là ác Khi ác chưa chín muồi Ác nghiệp chín muòi rồi Người ngu chịu khổ đau”
(Xem: 2163)
Sau hơn 2.600 năm hình thành và phát triển, Phật giáo đã có mặt trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ.
(Xem: 2268)
Có người cho rằng có một công việc tốt là lựa chọn của họ trong cuộc sống hạnh phúc.
(Xem: 2738)
Khi gặp chuyện muộn phiền, khó khăn, hay gặp lúc bế tắc, khó xử, người ta thường buột miệng mà nói ra 2 chữ: “Tùy duyên”.
(Xem: 2357)
Xưa nay, hành giả nào chọn cuộc sống tu hành theo chân Phật hướng đến giác ngộ giải thoát, đều phải học những lời Phật dạy, gọi là Pháp học.
(Xem: 2149)
Cuộc sống của con ngườivạn vật chung quanh biến đổi từng giờ từng phút theo không gianthời gian.
(Xem: 2299)
Chúng ta" giống như cây. "Chấp thủ" giống như dây leo. Nếu như ta khao khát được ngắm cảnh, thì cảnh chập chờn quanh mắt ta.
(Xem: 2634)
Nhiều người lấy cái lí "Phật tại tâm" nên không bao giờ đi chùa, lễ Phật, tụng kinh hay tìm hiểu giáo lý.
(Xem: 2269)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay.
(Xem: 3137)
Chúng ta không nên quá bận lòng với những việc tốt xấu, đúng sai của thế gian, chỉ cần quản lý tốt
(Xem: 2346)
Sống trong đời, mỗi người nếu khôngthiện tâm nuôi dưỡng thì đời sống sẽ trở nên bức bách; con người sẽ sống mà không có hạnh phúc an lạc.
(Xem: 2109)
Tu căn là một trong những pháp hành quan trọng của giáo pháp Thế Tôn.
(Xem: 2298)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2596)
Phiền não vô lượng, nghiệp chướng vô cùng nhưng nếu nắm trong tay chìa khóa chánh niệm, tỉnh giác...
(Xem: 2401)
Theo thuật ngữ Phật giáo Tàm – Quý có nghĩa là biết hỗ thẹn, biết liêm sĩ.
(Xem: 2217)
Con người từ khi ra đời đã tồn tại “cá nhân” hay “cái tôi”. Thế nên, rất cần phân biệt “cá nhân hay cái tôi là thực kiện” và “cá nhân hay cái tôi do suy tưởng”.
(Xem: 2038)
Phật giáo, một con đường lý tưởng đi vào lòng dân tộc Việt từ ngàn xưa, trở thành một nếp sống tâm linh thuần thiện và tịnh khiết
(Xem: 1752)
Chúng ta đang sống trong cõi dục, sinh ra từ tham ái nên mọi người, mọi loài trên thế gian này đều chịu kiềm tỏachi phối của dục vọng.
(Xem: 2686)
Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp ...
(Xem: 2264)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2748)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2527)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant