Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cư SĩPhật Pháp

23 Tháng Tám 202020:25(Xem: 4074)
Cư Sĩ Và Phật Pháp

CƯ SĨPHẬT PHÁP

Tiểu Lục Thần Phong

 Cư Sĩ Và Phật Pháp

Đạo Phật ra đời và phát triển đến nay cũng đã hơn hai mươi lăm thế kỷ, ban đầu từ miền bắc Ấn Độ, sau đó lan truyền toàn xứ Ấn và phát triển sang các nước Trung Á, Nam Á, Bắc Á… và đến Âu, Mỹ hôm nay. Phật giáo truyền đến đâu thì kết hợp với văn hoá và đặc tính riêng của địa phương mà hình thành nên những truyền thống, tông phái Phật giáo khác nhau. Các tông phái có cách hành trì, hình thức y phục khác nhau, thậm chí một số nhìn nhận khác nhau nhưng tất cả cùng tôn thờ đấng sáng lập đạo là Phật Thích Ca Mâu Ni, cùng tôn kính tam bảo: Phật – pháp – tăng, cùng thống nhất cái cốt lõi của đạo Phật là: Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên, Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ đạo…Nói một cách tổng quát có ba nhánh chính: Tiểu thừa ( thịnh hành ở các nước Nam Á), đaị thừa ( thịnh hành ở các nước Bắc Á) và Mật tông Kim Cang thừa ( thịnh hànhtây Tạng và vùng Himalaya)

Đạo Phật cũng như mọi pháp khác của thế gian, không thể nằm ngoài quy luật: Thành - baị - hoại – không hay Sinh - trụ - dị - diệt. Trải qua hai mươi lăm thế kỷ, đã có không biết bao nhiêu thăng trầm, xáo trộn, khủng hoảng thậm chí bị tiêu diệt hẳn như ở Ấn Độ, vùng Trung Á (Afghanistan, Pakistan, khu vực rộng dọc theo con đường tơ lụa cổ xưa…)

Đạo PhậtViệt Nam cũng thế, phát triển rực rỡ nhất vào thời Lý - Trần, sau đó suy vi kéo dài nhiều trăm năm ( thời hậu Lê, thời Pháp thuộc, thời Ngô triều…). Dù thăng trầm vậy, nhưng đạo Phật gắn bóđồng hành với lịch sử dân tộc  hơn hai ngàn năm nay.

Trong đạo Phật chia làm hai mảng: xuất giatại gia, có thể ví rằng xuất gia (tăng, ni) là những chuyên viên hoằng pháp chuyên nghiệp, thành phần tại gia là những người hoằng pháp tài tử, nghiệp dư. Phật tử tại gia cũng có thể ví như là cơ sở hạ tầng, thành phần xuất gia là kiến trúc thượng tầng. Hạ tầng cơ sở có vững chắc và mạnh mẽ thì thượng tầng kiến trúc mới phát triển và xây dựng được huy hoàng, nếu không có hạ tầng cơ sở thì thượng tầng kiến trúc cũng khó mà tồn tại hay phát triển được.

Khi Thế Tôn còn tại thế, ngài rất hiểu điều này, bởi vậy ngoài việc thuyết pháp cho những vị xuất gia. Đức Phật còn chú ý nhiều đến hàng Phật tử tại gia, có nhiều những bài pháp, những bài kinh dành cho hàng Phật tử tại gia như: Kinh Hạnh Phúc, Thắng Hạnh, Châu Báu, Từ Bi, Suy Niệm Về Nghiệp….Đặc điểm những bài kinh này rất ngắn, đơn giản, dễ thuộc, dễ nhớ phù hợp căn cơ của người tại gia, phù hợp khả năng lãnh hội của đại chúng, quan trọng là có thể áp dụngthực hành ngay trong đời sống thường nhật. Trong những thời thuyết pháp, đức Phật có lần nói về bốn pháp an lạc cho hàng Phật tử tại gia, đây có thể coi như kim chỉ nam cho người Phật tử sống đời an lạc, sống đúng chánh pháp.

1. Phương tiện đầy đủ:

 Người Phật tử tự nuôi sống mình và gia đình bằng những nghề như: làm nông, buôn bán, phục dịch, viết sách, nghệ thuật… luôn trau dồi cho ngày một tinh xảo, hoàn thiện; luôn siêng năng làm việc và học hỏi để phát triển

2. Thủ hộ đầy đủ:

 Người Phật tử có tiền bạc, lúa gạo, của cải, tài sản…do nỗ lực làm việc mà thu hoạch được, tự mình làm ra, làm đúng như pháp. Người Phật tử biết giữ gìn để của cải tài sản không bị mất mát, biết phòng thủ trước những nạn: vua quan, nước, lửa, giặc, trộm, oan gia trái chủ…

3. Thiện tri thức đầy đủ:

 Người Phật tử không mất điều độ, không buông lung, không dối trá, không hung hiểm. Người Phật tử phải biết khéo léo làm cho sự sầu khổ chưa sanh sẽ không sanh; sự sầu khổ đã sanh có thể mau khai mở, tỉnh giác; những điều vui thích chưa sanh sẽ sanh nhanh chóng; Những điều vui thích đã sanh sẽ giữ gìn không bị mất

4. Chánh mạng đầy đủ:

 Tài sản, của cải bảo quản chu toàn, cân đối việc thu và chi, không nhập nhiều xuất ít và cũng không nhập ít xuất nhiều. Người Phật tửtiền của không chi xài phóng túng một cách quá trớn, chi cho ham muốn ngu si, không nghĩ đến ngày sau, việc này giống như “ Quả ưu đàm bát không có hạt giống”. Người Phật tửtiền của mà không dám chi xài, người ở gần sẽ nói:” Người ngu si này như con chó chết đói”. Vì vậy người Phật tửtiền của phải tự mình cân đối xuất nhập ngang nhau.

Bốn pháp này mang laị an lạc ngay hiện tại cho người Phật tử tại gia. Bốn pháp này được nói trong kinh Tạp A Hàm, người Phật tử taị gia áp dụng sẽ sống an lạc, sẽ có điều kiện để hộ phápduy trì niềm tin nơi Phật pháp. Có thể nói rằng, bốn pháp này không chỉ áp dụng cho người Phật tử tại gia, mà có thể áp dụng cho tất cả mọi người trên thế gian này. Bốn pháp này là sự tỉnh thức, sự khôn ngoan nếu ai áp dụng thì người ấy sẽ đắc được an lạc ngay trong cuộc sống hiện tại. Nếu bỏ yếu tố tôn giáo ra thì bốn pháp này có thể coi như mẫu mực đạo đức, là cái mức độ hành xử căn bản của con người, phù hợp với pháp luật thế gian ( dù đó là hình thái nhà nước nào)

Kinh Phước Đứcbản kinh ngắn, rất dễ học thuộc và dễ áp dụng trong đời sống, có thể nói là bản kinh thích hợptiêu biểu cho hàng Phật tử tại gia. Sở dĩ có kinh này là do sự cầu kiến tham vấn của một vị thiên. Đức Phật dạy:

Lánh xa kẻ xấu ác

Được thân cận người hiền

Tôn kính bậc đáng kính

phước đức lớn nhất

 

Sống trong môi trường tốt

Được tạo tác nhân lành

Đước đi trên đường chánh

phước đức lớn nhất

 

Có học, có nghề hay

Biết hành trì giới luật

Biết nói lời ái ngữ

phước đức lớn nhất

 

Được cung phụng mẹ cha

Yêu thương gia đình mình

Đước hành nghề thích hợp

phước đức lớn nhất

 

Sống ngay thẳng bố thí

Giúp thân bằng quyến thuộc

Hành xử không lỗi lầm

phước đức lớn nhất

Bài kinh ngắn gọn, cô đọng, từ ngữ đơn giản dễ hiểu, thể lệ thi - kệ dễ thuộc, có những bản dịch khác dài hơn một tí nhưng nội dung cũng gói trọn những điểm chính như thế. bản kinh này rất thích hợp cho hàng Phật tử tại gia, thích hợp cả với người khác tôn giáo, không tôn giáo. Ngoài yếu tố tôn giáo ra, bản kinh này có thể coi như  luân lý đạo đức căn bản, là lối sống, cách hành xử của con người. Đức Phật đã chỉ dạy rõ ràng, còn có thực hành hay không là  vấn đề chính ở chúng ta, cứ đi sẽ đến, cứ thực hành đúng pháp như thế sẽ an lạc.

Đôi khi vẫn có người hỏi: Người Phật tử có nên làm giàu không? tất nhiên là được và nên, làm giàu không có gì sai trái, miễn là không phạm pháp, phạm luật thế gian và nhất là phải: Chánh mạng. Có những nghề nghiệp trong xã hội được pháp luật thế gian cho phép nhưng lại là tà mạng, chẳng hạn như: giết mổ gia súc, mua bán súng đạn, mua bán chất gây nghiện ở mức độ nhẹ ( marijuana, cần sa), mua bán rượu, cờ bạc, khai thác tàn haị môi trường tự nhiên, du lịch tình dục ( sextour), …Người Phật tử làm giàu nên tránh những nghề tà mạng, vì một khi làm thì sẽ tạo nghiệp nặng nề về sau, cái giàu như thế thì thật không đáng để trả giá vĩnh kiếp luân hồi. Người Phật tử làm giàu để nuôi thân, nuôi gia đình, giúp đỡ những người cùng khổ, cứu tế xã hội, hộ trì Phật pháp… cái giàu như thế thì ý nghĩa biết bao, lợi lạc biết bao. Ông Cấp Cô Độc là một Phật tử tại gia, một đại phú hào thời đức Phật còn tại thế. Ông ấy là tấm gương cho hàng Phật tử muôn đời noi theo. Người Phật tử làm giàu, đúng pháp luật thế gian laị chánh mạng nữa thì tuyệt vời biết bao. Trong bốn pháp mang laị an lạc kể trên cũng đã minh định rõ ràng, làm giàu đúng pháp, chánh mạng sẽ mang laị an lạc.

Trong hàng cư sĩ hay Phật tử tại cũng có những tấm gương vô cùng xuất sắc. Thời đức Phật tại thế có ông trưởng giả Cấp Cô Độc, một vị hộ pháp đắc lực, một con người nhân hậu trang trải tình thương cho những người khốn cùng trong xã hội. Sau đó có vua Asoka, một vị hộ pháp, hoằng pháp vĩ đaị của Phật giáo, nhiều hoàng tử và công chúa con của ông đã xuất gia. Chính họ đã trở thành thầy tổ, mang Phật giáo đến Tích Lan ( Sri Lanka) và các nước Nam Á khác. Bên Trung Hoa cũng có những vị cư sĩ lớn như vua Lương Võ Đế, Võ Tắc Thiên, đặc biệt nhất, xuất sắc nhất có lẽ là cư sĩ Bàng Long Uẩn và cả nhà ông, tương truyền cả nhà ông đều đắc đạo, đều tự tại thị tịch, cứ như là du hí nhân gian.

Phật giáo Việt Nam có thể nói là bắt đầu từ thiền sư Khương Tăng Hội, Luy Lâutrung tâm Phật giáo lớn thời bấy giờ, từ thế kỷ thứ mười trở về trước thì chúng ta có rất ít tài liệu, nên không biết đến những tấm gương cư sĩ. Từ thế kỷ thứ mười trở về sau thì sử sách trong đạo ngoài đời đều ghi nhận những tấm gương cư sĩ xuất sắc. Vua Lý Thái Tổ ( Công Uẩn) có thể coi như một Phật tử tại gia lớn nhất vậy, ông cũng như các vị vua sau này của thời đại Lý - Trần hết mình phò hộ Phật giáo: xây chùa, tô tượng, đúc chuông, độ tăng…Ngoài các vị vua, còn có vương tôn công tử, đại thần, hoàng thân quốc thích, phú hào…phần nhiều đều là cư sĩ tại giahết lòng hộ trì Phật pháp. Thời cận đạihiện đại có rất nhiều những tấm gương cư sĩ điển hình như: bs Lê Đình Thám, Thiều Chửu, Đoàn Trung Còn, Trần Trọng Kim, Mai Thọ Truyền… gần hơn nữa có rất nhiều những bậc cư sĩ vừa nhiệt tâm, vừa tài giỏi có thể kể: Tâm Tấn, Tâm Huy, Tâm Quang, Tâm Lễ, Tâm Diệu, Nguyên Thọ, Hoàng mai Đạt, Minh tiến… còn nhiều và rất nhiều nữa. Hàng cư sĩ tại gia này là cơ sở vững chải để thượng tầng kiến trúc phát triển việc hoằng dương Phật pháp.

Nhân việc nói về các pháp an lạc cho hàng Phật tử tại gia, cũng như lạm bàn một chút về cư sĩ. Nhân tiện đây cũng xin nhắc đến hai tấm gương Phật tử tại gia người Mỹ và người Úc ( Australia). Ông Henry Steel Olcott là một Phật tử tại gia người Mỹ, ông có công lớn trong việc phục hưng Phật giáo ở Sri lanka và hoàn thiện lá cờ Phật giáo, nhờ đó mà đạo Phật trên toàn thế giới hôm nay có chung một lá cờ ( một số nước có sự thay đổi màu lá cờ, để dùng riêng trong nước họ, ví dụ: Myanmar đổi màu cam ra màu hồng). Ông Henry Steel Olcott là một đaị tá hải quân Mỹ, ông đã trở thành một vị hộ pháp đắc lực của Phật giáo. Người thứ hai là ông Ian Green, một Phật tử tại gia người Úc ( Australia), cả hai vợ chồng đều mộ Phật, học Phật và tu Phật. Chính ông đã khởi xướng, bỏ công sức, của cải để hoàn thành pho tượng Phật ngọc hoà bình. Pho tượng được mang đi khắp thế giới cho Phật tửloài người chiêm ngưỡng, đây là một sự kiện lớn làm nức lòng hàng trăm triệu người con Phật, đã làm khơi dậy một làn sóng ngưỡng mộ hướng về Phật pháp. Sau khi hoàn thành sứ mệnh vòng quanh thế giới, pho tượng Phật ngọc đã được an vị vĩnh viễn ở ngôi tháp Great Stupa of Universal (Australia).

Hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua, đạo Phật bây giờ có mặt khắp năm châu, ngưởi quy y tu học đủ các sắc dân. Đạo Phật đem ánh sáng trí huệ đến cho con người, làm thức tỉnh con người, trang trải tình thương đến con người và muôn loài, cổ vũ hoà bình. Những người con Phật vì nhiều lý do chưa thể xuất gia thì vẫn có thể tu học tại gia, vẫn có thể tinh tấn pháp học, pháp hànhhộ trì Phật pháp. Các bậc xuất gia đẩy mạnh hoằng pháp và hàng Phật tử tại gia hộ trì Phật pháp, nhờ thế Phật pháp sẽ còn lan toả khắp nơi nơi.

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 082020

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2218)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2655)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2520)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2334)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2646)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2427)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3242)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2313)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2408)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2531)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2463)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2534)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2190)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2577)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3044)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2640)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2698)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2975)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2550)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2582)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4077)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2765)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3050)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3295)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2285)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2497)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2799)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2993)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2864)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2602)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2626)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3183)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2592)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2269)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2380)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2472)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2593)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2678)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2739)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3262)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2555)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2593)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2044)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2815)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2894)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2932)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2699)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2506)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2773)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant