Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sống Để Bụng Chết Mang Theo

10 Tháng Mười Một 202005:56(Xem: 7253)
Sống Để Bụng Chết Mang Theo

SỐNG ĐỂ BỤNG CHẾT MANG THEO

Truyện ngắn của Tiểu Lục Thần Phong

 
chet va tai sinh

Trong cuộc sống hàng ngày, mọi người chúng ta chắc ai ai cũng từng nghe qua câu này:” Sống để bụng chết mang theo”. Bản thân bút giả cũng đã nghe không dưới hai lần, khi ngoại tôi còn sống, những khi có xích mích với ai đó thì ngoại nói thế. Gia tộc tôi cũng từng có người nói vậy. Xóm giềng gần cũng có không ít kẻ đã tuyên bố:” Sống để bụng chết mang theo”!

 Thế để bụng cái gì? tại sao đến chết laị còn muốn mang theo? liệu có mang theo được chăng?

 Con người ta cộng sinh ở thế gian này, thân thì làm ông bà, cha mẹ, con cháu, anh em, vợ chồng; sơ thì bạn bè, đồng tham đạo hữu, thầy trò… nhưng nhìn chung tất cả không ngoài bốn giềng mối: báo ân – báo oán – đòi nợ - trả nợ. Con người ta bị chi phối nặng nề bởi thất tình lục dục: Ái, ố, kinh, cụ, hỷ, nộ…và suốt cuộc đời này (cả những đời sau, nếu còn phước tiếp tục tái sanh làm người) bị ràng buộc bởi: Tài, sắc, danh, thực, thuỳ; bị sai xử bởi: Tham, sân, si cho nên chuyện va chạm nhau, xung đột nhau là điều không thể tránh khỏi; nhẹ thì cãi cọ, lời qua rtiếng laị; nặng thì chửi mắng, mạ lị, thậm chí động tay chân. Ở tầm mức cá nhân, gia đình thì mâu thuẫn nhỏ; ở cấp bậc cộng đồng xã hội thì xung đột lớn hơn; ở hạn độ quốc gia, thậm chí liên minh quốc gia thì có chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng…

 Con người từ xưa đến giờ liên miên đánh nhau, đánh không ngừng nghỉ, khi thì bộc phát, khi thì âm ỉ, không lúc này thì cũng lúc khác, không nơi này thì cũng chỗ kia. Quá khứ đã thế, hiện tại vẫn vậy và tương lai chắc cũng chẳng khác! Khi mà con người còn chìm đắm trong ngũ dục lục trần, khi con người còn bị lòng tham lam vô độ và sự sân hận cực điểm mù quáng. Trong những cuộc mâu thuẫn cãi vã hay xung đột ấy, kẻ yếu thế dưới cơ, người “ vị tình thất lý”… thì ôm hận, buộc miệng thề:” Sống để bụng chết mang theo” đã đành. Nhiều khi chính kẻ gây hấn cũng “ vừa ăn cướp vừa la làng” cũng to mồm thề độc:” Sống để bụng chết mang theo”. Tỷ như Trung Cộng vừa cướp biển Đông của thiên hạ vừa gây hấn khắp nơi, ấy vậy mà luôn mồn lu loa” các nước nhỏ xung quanh xâm haị quyền lợi cốt lõi “ và thề sẽ chiến đấu đến cùng, thề không bỏ qua, cũng tức là “để bụng” , không chỉ một đời mà còn truyền cho nhiều đời. Bởi vậy mà cái máu bành trướng từ tổ tiên xa xưa đến giờ vẫn chẳng thay đổi!

 Một khi đã nói:” Sống để bụng chết mang theo” nghĩa là không bao giờ quên và cũng hàm ý sẽ phục thù ( khi đủ sức, đủ điều kiện). Nếu nói văn vẻ kiếm hiệp một tí, kiểu quân tử Tàu thì:” Quân tử mười năm trả thù chưa muộn”, hoặc giả:” Tha thứ nhưng không bao giờ quên”. Sống để trong bụng đã đành, ai cũng có thể thấy, có thể biết (đụng mặt là biết liền )  nhưng liệu chết mang theo có được không? chắc chắn, nhất định là thế! không những mang theo một đời mà còn mang theo nhiều đời nữa là khác. Tỷ như Triệu Thố, mười đời vẫn ôm hận theo dõi quốc sư Ngộ Đạt để tìm cơ hội báo thù! Thật ghê gớm cho cái nỗi lòng “mang theo”.

 Kinh sách, giáo lý nhà Phật dạy: Điền trang sản nghiệp, của cải, danh vọng… tất thảy bỏ laị, một khi nhắm mắt xuôi ta. Cái duy nhất mang theo là nghiệp thiện – ác đã làm. Kinh Pháp Cú viết: Nghiệp ( thiện – ác) theo ta như bánh xe theo chân con vật kéo, như bóng không rời hình. Nghiệp thiện hay ác đã tạo một đời thì khi ra đi dù muốn hay không vẫn phải mang theo, không thể vất bỏ, không thể chối từ. Một khi đã thề:” Sống để bụng chết mang theo” thì càng làm cho nó kiên cố hơn, vững chắc hơn! Bởi thế mà con người ta mới gặp laị nhau ( nếu còn phước làm người) để mà báo ân – báo oán – đòi nợ - trả nợ và thế gian này “oan oan tương báo” không bao giờ dứt, cũng vì thế mà khổ đau chồng chất.

 Đọc sử Tàu, chắc mọi người ai cũng biết chuyện bà Lã Hậu giết nàng Thích Cơ ( sủng phi của Hán Cao Tổ). Thích Cơ đã thề độc sẽ làm mèo để báo thù ( vì Lã Hậu tuổi tí). Sau đó Lã Hậu sợ mèo cực độ và hạ lệnh giết hết mèo trong thiên hạ. Một tích khác nữa là Quan Công, sau khi chết hồn bay đi khắp nơi tác oai tác quái đòi trả đầu. Ông ta quên, bản thân ông đã chém biết bao nhiêu thủ cấp, ai sẽ trả đầu cho họ đây? sử cũ cũng kể chuyện Lý Thế Dân ( người kế nghiệp Lý Uyên và thiết lập sự thạnh trị của triều Đường). Ông ấy ăn không ngon ngủ không yên, thậm chí đến bữa không dám ăn vì vô số oan hồn uổng tử theo quấy phá. Ông ta phải cử đaị tướng Uất Trì Cung múa đaị đao bên bàn ăn thì ông mới có thể ăn cơm được! thật dễ sợ “Chết mang theo” là thế đấy! lòng oán kết càng lâu càng dày, càng chất chồng. Kẻ mang oán kết và người bị oán kết đều khổ sở, đều như thiêu đốt tâm can. Hoả ngục là đây, đâu phải đợi đến khi thấy mặt Diêm La Vương. Tâm địa, địa ngục cũng từ một tâm mà ra. Địa ngục hay địa đàng đều do tâm mà tựu thành.

 Quả thật không phải yếu cơ thất thế mới thề độc, ngay cả kẻ gây hấn cũng thề độc:” Sống để bụng chết mang theo” sự sân hậnmê muội đến cùng cực. Vì “ Sống để bụng chết mang theo” mà oan oan tương báo, nhiều khi cái oan hay cái oán chỉ bé tí teo nhưng oán kết qua thời gian mà lớn dần, bởi vì cố  để trong bụng”, vì thề “ chết mang theo”. Những cái oán kết dẫn đến báo đền có thể chậm hoặc nhanh tùy hoàn cảnhphước đức của mỗi người. Sử nước mình cũng có những vụ báo oán tàn khốc. Trần Thủ Độ bách haị họ Lý, chôn sống tôn thất nhà Lý. Đến khi nhà Trần suy vi thì Hồ Qúy Ly laị truy sát con cháu họ Trần. Nhà Tây Sơn tận diệt chúa Nguyễn, khi suy vi thì Nguyễn Ánh laị trả thù tàn khốc những người có dính líu đến nhà Tây Sơn. Nguyễn Ánh từng thề “ Vì chín đời mà trả thù”, thù này “ sống để bụng chết mang theo” là vậy! oan oan tương báo quả thật đáng sợ, thật khốc liệt và kinh khủng! ( xin lưu ý qúy độc giả, ở đây chỉ nói chuyện đạo “ oan oan tương báo” tuyệt đối không dám bàn chuyện Công - tội hay đúng –sai của các nhân vật và các triều đaị, việc ấy là của các nhà sử học!)

 Nếu vì hận, vì đối nghịch mà thề “ sống để bụng chết mang theo” đã đành. Ngay cả yêu quá, thương quá cũng thề thốt “ Chết mang theo”. Chính sử, dã sử, dân gian đều có vô số chuyện như thế. Đời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu có tích này: Hàn Phùng có vợ đẹp, vua Tống Yên dùng quyền thế cướp đoạt. Hàn Phùng yếu thế nên tự vẫn, vợ Hàn Phùng sau khi bị đưa vào cung cũng tự vẫn theo nhưng thề nguyền “ không sống cùng nhau thì chết chôn chung một mộ”. Tống Yên căm hận, hạ lệnh chôn hai người bằng hai nấm mộ cách biệt nhau, từ hai ngôi mộ ấy mọc lên hai cây Văn Tử mà cành quấn quít trên không, laị có đôi chim mà mỗi con chỉ có một cánh nương tựa vào nhau,  dưới đất rễ bấu víu nhau. Bởi thế mà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm mới viết câu:” Như chim liền cánh như cây liền cành”. Nước mình cũng có chuyện Mỵ Nương Trương Chi, hai người vì tình duyên dang dở mà ôm hận, ôm đau thương, ôm cả “ Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan” Truyện Kiều - Nguyễn Du. Trái tim Mỵ Nương hoá ngọc, ngọc tạc thành chén trà, khi gịot lệ Trương Chi nhỏ xuống thì ngọc ấy mới vỡ tan.

 Cũng vì “ Sống để bụng chết mang theo” nên khổ, cũng vì vậy mà nhiều người khi lâm chung cứ nhì nhằng dây dưa chẳng chịu đi, sống không được chết không xong. Kẻ thì tiếc nuối tài sản hoặc tâm nguyện điều gì đó mà chưa tròn, người thì hiềm hận mối thù, cũng có không ít người vì thương nhớ ai đó mà cứ ôm mãi trong lòng, chẳng chịu đi… Ôm bao nhiêu mối trong lòng, sống đã để ttrong lòng, giờ chết mang đi mà đâu có đi dễ dàng, bình an. Bởi thế Phật mới bảo vô minh, hai từ vô minh nghe thì nhẹ hơn những từ thẳng thừng, rạch ròi như: Không sáng suốt, ngu si… Hai từ vô minh bao quát rất rộng và nhiều  ý nghĩa, vì vô minh nên mới để trong lòng cho tâm tư nặng nề, u uất. Mình ôm trong lòng thì mình khổ trước tiên trong khi kẻ đối nghịch nhởn nhơ. Làm người thì ai mà chẳng vô minh, nếu không vô minh, hết vô minh thì đã vượt qua lục đạo, đã vào hàng thánh nhân rồi.

Vì chưng sanh tử còn dài

Chư Phật hiển hoá bản hoài độ sinh

Bao giờ dứt sạch vô minh

Cười khàn giữa chợ kệ kinh cũng lìa

( Tam Thế - thơ TLTP)

 Cõi Sa Bà này là cõi hkổ đau, kham nhẫn, chịu đựng những điều đau khổ, những điều khó chịu. Thế gian này vốn vô thường, vô ngã và khổ đau. Đời người sanh- lão - bệnh - tử là khổ, cầu không được là khổ, yêu thươngxa nhau là khổ, ghét mà hội tụ thì khổ, thân tâm ngày đêm như lửa đốt là khổ, tam khổ, bát khổ, bách bát khổ, tám vạn bốn ngàn khổ, vô lượng khổ ấy vậy mà còn “ Sống để bụng chết mang theo” thì khổ biết nhường nào.  Tất cả cũng vì vọng tưởng vô minh mà ra, cũng vì lý do này, vì “Đại sự nhân duyên” này mà Phật ra đời để giáo hóa chúng sanhNgộ nhập Phật tri kiến”. Khi mình chưa ngộ, chưa nhập được tri kiến Phật thì chí ít mình cũng phải biết áp dụng những gì Phật dạy vào cuộc sống để mình bớt khổ, thêm an lạc, xa hơn nữa thì phút chung cuộc sẽ nhẹ nhàng bình an. Còn như chỉ nói suông, chẳng áp dụng được gì thì kể cũng uổng đời mình, phụ công Phật. Nhà Phật thường bảo có tám vạn bốn ngàn pháp môn, biển học mênh mông, kinh điển chất như núi, mỗi thầy mỗi kiểu… Tịnh Độ bảo tu thanh tịnh, trụ vào câu Phật hiệu. Thiền tông bảo vô trụ, “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, không trụ vào sắc- thanh- hương-vị-xúc-pháp. Mật tông thì trì chú… Nhưng nhìn chung là vẫn thống nhất một hạnh buông, chữ buông vô cùng kỳ diệu, càng buông bao  nhiêu thì laị “đắc” bấy nhiêu. Với hàng thượng nhân thì qua sông rồi thì buông cả bè, những bậc cao viễn thì  buông cả pháp “ Pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp”. Hàng Phật tử sơ cơ chúng mình thì chỉ cần làm những điều thiết thực nho nhỏ trong đời sống hàng ngày như: buông xả bớt những phiền muộn, một vài lời nói xấu, những hành động của ai đó chơi dơ, chơi gác cơ mình…Nhiêu đó cũng đủ bớt giận, đừng để ấm ức trong lòng. Mình để trong lòng, để bụng thì mình khổ, tâm can mình nung nấu chứ kẻ kia cứ nhởn nhơ. Chẳng cần phải nói cao thượng tha thứ, mình buông xuống, mình không ôm trong lòng là mình tha thứ cho chính mình, mình đang làm lợi cho chính mình đấy thôi!

 Sống ở đời chắc ai cũng từng đối mặt cái cảnh “ oan gia ngõ hẹp gặp nhau” những lúc ấy quả thật vô cùng bực bội, tức tối. Rồi cuộc sống này có biết bao điều bất như ý… Nếu cứ khư khư “ Sống để bụng chết mang theo” thì khổ biết bao. Bởi vậy mình phải buông thôi! Đó là cách duy nhất, mình không buông mà cứ ôm chặt trong lòng thì Phật, Bồ Táttừ bi cách mấy cũng không tài nào giúp hay độ trì được!

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất lăng thành, 10/2020

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2760)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2664)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2329)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2416)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2550)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3010)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2614)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4116)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3074)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2522)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3012)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2875)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2622)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2394)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2693)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3276)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2562)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2057)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2955)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2726)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant