Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Biển Cả Và Phật Pháp

18 Tháng Mười Một 202019:06(Xem: 3927)
Biển Cả Và Phật Pháp
Biển Cả Và Phật Pháp

Thích Trung Định

Bốn Pháp Thu Phục Lòng Người

Biển là không gian bao la, rộng lớn vô cùng, chiếm đến bảy phần mười của diện tích bề mặt quả đất. Cho nên, ai muốn khám phá biển đều khó mà hiểu hết được, bởi biển cả có gì đó vừa hiện thực, huyền bí lại vừa thâm sâu nhưng cũng rất gần gũi với con người. Biển cũng đang sống, đang reo vui những làn sóng vỗ, và cũng đang cảm nhận hết tất cả những tâm tư tình cảm của con người, và đang dang trải tấm lòng bao la dung chứa tất cả mọi loài, ấp ủ trưởng dưỡng nhân sinh như một người mẹ vĩ đại che chở cho đàn con yêu.

Biển có những đặc tính kỳ diệu, những thành tố nào tạo nên biển cả đều mang một ý nghĩa, một triết lý thù thắng. Bờ biển có những bãi cát thoai thoải có thể đưa chúng ta từ từ xuống nước, thuận tiện cho việc thả thuyền kéo lưới. Biển không bao giờ dời đổi mà luôn ở tại một chổ cố định, cho nên muốn ra biển ai cũng biết hướng để đi không lầm đường lạc lối. Biển không bao giờ chấp nhận thây chết. Mỗi khi có thây chết thì sóng biển tấp thây chết lên bờ, trả lại sự trong sạch cho biển cả. Biển luôn thâu nhận nước của tất cả các sông, không kể nước đó ở sông nào, lớn bé ra sao. Nước của các dòng sông trôi ra tới biển đều cũng bỏ tên riêng của mình để mang chung là biển cả. Tuy ngày đêm muôn sông liên tiếp đổ về biển cả nhưng không vì thế mà nước biển có khi vơi, khi đầy. Nước biển sâu rộng bao la nhưng ở đâu cũng có một vị là vị mặn dù nước ở trong bờ hay nước ở ngoài khơi. Lòng biển luôn có đủ thứ trân quý như san hô, xà cừ và ngọc quý, tha hồ cho tất cả những ai tìm kiếm. Biển cả là chỗ dung thân cho muôn triệu sinh vật, trong đó có loài lớn bằng trăm do tuần, có loài nhỏ bé như cây kim, tất cả đều nương vào biển cả để tồn tại.

Một người sống với biển nương nhờ biên, nên thương yêuca tụng biển hết lời. Cũng vậy, một người sống tu tập trong giáo pháp của Như Lai thì cũng thương yêu, trân quý và hết lời tán thán đối với chánh pháp Như Lai. Đó là những gì?

Thứ nhất, nếu biển có những bờ cát thoai thoải thuận tiện cho ta xuống nước, thì Chánh pháp cũng vậy. Trong đạo pháp này, mọi người đều có thể tu tập đi từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu, đốn, tiệm, quyền, giáo, hiển, mật… vô lượng pháp môn, mở rộng cho tất cả mọi người đủ loài căn tính, già, trẻ, gái, trai, từ vua quan đến thứ dân, từ giàu sang đến nghèo hèn, ai cũng có thể đi vào Chánh pháp được cả. Đặc tính này cho thấy rằng người vào đạo không choáng ngợp trước hệ thống giáo lý đồ sộ của Phật pháp, mà từ từ tiếp cận dần dần rồi sẽ được trọn vẹn. Thành ra, Phật pháp không từ bỏ ai, bất cứ ai đều cũng có thể đến để tu tập trong giáo pháp này. Vì vậy cho nên quý Phật tử không nên ngần ngại để đến với đạo pháp. Hãy bước đi những bước đầu tiên rồi sẻ đến những bước trưởng thành.

Thứ hai, nếu biển luôn ở tại một chỗ mà không dời đi nơi khác, không cuốn phăng đi xóm làng thành thị, thì chánh pháp cũng vậy: Những nguyên tắc pháp luật của Phật pháp không bao giờ thay đổi, dù cho mặt trăng có nóng lên, mặt trời có thể nguội đi nhưng chân lý của Phật pháp đều vẫn vậy.

Thứ ba, nếu biển không bao giờ dung chứa tử thi, thì chánh pháp cũng vậy, không bao giờ dung túng vô minh biếng lười và hành động phạm giới. Đức Phật thường dạy: Tin Ta mà không hiểu Ta là phỉ báng Ta. Một Tỷ kheo phạm giới để đi đến gặp được Phật và một Tỷ kheoquyết tâm giữ giới mà phải chết, nên không đến gặp được Phật. Phật dạy: Tỷ kheo chết nhưng giữ giới, tuy xa Ta nhưng rất gần Ta. Còn Tỷ kheo kia phạm giới để được sống và được gặp Ta nhưng luôn cách xa ta ngàn dặm. Do vậy, một người lười biếng, dãi đãi không tu trong một đại chúng có tu thì không thể nào cư trú lâu dài được, sớm muộn gì y cũng phải đào thải ra ngoài giáo pháp chơn chánh của Như Lai.

Thứ tư, nếu biển chấp nhận nước của tất cả các dòng sông không phân biệt nước của sông nào, thì chánh pháp cũng vậy, thâu nhận tất cả mọi người, đủ mọi thành phần trong xã hội, dù người ấy là vua quan quyền quý, đến thứ dân bần cùng; dù người đó là thông minh lợi căn hay độn căn ngu đần, hết thảy đều được đón tiếp một cách bình đẳng như nhau, đều cùng xưng là sa môn Thích tử và cũng đều có thể chứng ngộ trong giáo pháp. “Nước trăm sông đổ về biển cả biến biển dơ thành sạch, người trăm họ quy y Tam bảo bỏ ác làm lành”.

Thứ năm, nếu biển không vơi đi thì cũng không đầy thêm dù đêm ngày muôn sông liên tục chảy về biển cả, chánh pháp cũng vậy, chánh phápchánh pháp, không phải vì nhiều người đi theo mới là chánh pháp, hay không phải ít người đi theochánh pháp không phải là chánh pháp. Sự thịnh suy của nhân tình thế thái không bao giờ đánh giá được chân lý của đạo pháp này.

Thứ sáu, nếu nước biển ở đâu cũng có một vị là mặn thì chánh pháp cũng thế, dù giáo pháp được trình bày ra nhiều cách khác nhau, hay hàng vạn pháp môn tu tập, thì chánh pháp cũng có một vị duy nhất đó là vị giải thoát. Không có công năng giải thoát thì đó không phải là chánh pháp. Cho nên, thiền hay tịnh, tất cả đều đưa hành giả về một mối của sự giải thoátgiác ngộ.

Thứ bảy, nếu lòng biển có vô số các loài san hô, xa cừ và ngọc quý, thì chánh pháp cũng vậy, giáo pháp Như Lai có đủ các pháp môn cao quý vi diệu, như: Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề, Bát chánh đạo…

Thứ tám, nếu biển là chỗ dung thân thoải mái cho hàng triệu loại vi sinh vật, trong đó có các loài nhỏ bé như hạt cát, cho đến to lớn bao nhiêu, thì Chánh pháp cũng như vậy. Ở trong giáo pháp Như Lai, một em bé hoặc một người độn căn ít học vẫn có thể có cơ hội tu học thoải mái, cho đến bậc đại nhân như Bồ tát, Thanh văn, Bích chi, La hán, cũng đều có cơ hội tu tập và hoằng hóa trong môi trường rộng lớn thênh thang này.

Như vậy, biển cả là nguồn cảm hứng, là kho tàng vô tận không thể nghĩ bàn. Biển luôn có sự trũng thấp và rộng mênh mông, nhờ đó muôn loài khỏi phải chết ngộp; chánh pháp Như Lai luôn có sự khiêm cung và rộng mở để dung chứa và hóa giải tất cả phiền não của thiên hạ. Phật pháp có khả năng điều phục tham, sân, si trở thành từ bi, hỉ xả, vô ngã vị tha, luôn đề cao Giới, Định, Tuệ để tẩy sạch vô minh tham ái. Biển có khi hiền hòa dịu êm nhưng cũng có lúc cồn cào sóng dữ. Đạo pháp của Như Lai vẫn luôn đầy đủ đức tính từ bi, nhu hòa, nhẫn nhục nhưng0 vẫn luôn nêu cao tinh thần đại hùng, đại lực. Luôn mang sứ mệnh hưng thiện, xóa ác; đối với mọi u mê không dung thứ, đối với chút thiện căn thì không từ nan luống bỏ. Luôn nêu cao tinh thần phá tà hiển chánh, dẹp trừ ma quân thiệu long Tam bảo. Biển luôn tự tại tuyệt vời, tự tại vô ngại trước mọi gian nguy không bao giờ nao núng. Phật pháp bao giờ cũng là Phật pháp, dù cho vật đổi sao dời, lòng người thay đổi, biến hóa thăng trầm nhưng chân lý vẫn tự tại vượt qua mọi thời gian không gian.

Cho nên, một người yêu biển cả đứng ngày đêm ca tụng vẫn không bao giờ cạn nguồn cảm xúc. Chánh pháp của Như Laixưng tán muôn lời cũng không cùng tận. Vì Phật pháp để giải quyết vấn đề khổ đau muôn thuở cho hết thảy chúng sanh. Mà chúng sanh vô biên nên Phật pháp cũng phải vô tận, bất khả tư nghị:

“Chánh pháp đẹp vô cùng, lời vàng từ ý Phật

Con xin quay trở về, nương tựa Đạt-ma-da”

Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 355

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2752)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2229)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2660)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2354)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2671)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2439)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2542)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2712)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3001)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2559)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2594)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4100)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3311)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3003)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2636)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2390)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2597)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2746)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2557)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2132)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2600)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2053)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2907)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2717)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant