Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thế giới trong thế kỷ 21: Nhìn qua lăng kính Phật giáo

19 Tháng Mười Hai 202017:58(Xem: 4422)
Thế giới trong thế kỷ 21: Nhìn qua lăng kính Phật giáo

Thế giới trong thế kỷ 21: Nhìn qua lăng kính Phật giáo

Dr. Lewis Lancaster – Chuyển ngữ Nguyễn Thúy Loan Ph.D.


Dr Lewis Lancaster
(Xem bản PDF có đầy đủ hình ảnh minh họa)

Bài giảng của Tiến Sĩ Lancaster tại trường Đại Học University of the West, California vào tháng 10/2020.

Tiến sĩ Lancaster, nghiên cứu Phật Giáo 60 năm, và dạy Phật Học 36 năm tại trường Đại Học nổi tiếng University of California, Berkeley. Ông là Gíao sư Thỉnh Giảng hầu hết các trường Đại Học Đông Nam Á trong đó có Viện Đại Học Vạn Hạnh trước 1975 và Học Viện Phật Giáo Việt Nam ngày nay.

Tôi muốn cảm ơn University of the West đã mời tôi đến diễn thuyết đề tài này, đặc biệt là Viện Trưởng Tạ và Đại Đức  Sirinanda cùng với Giáo sư Miroj Sakya đã đứng ra tổ chức.

Cố gắng hiểu những gì đang xảy ra trong thế giới của chúng ta là chuyện khá khó khăn, chưa nói đến việc đưa ra hướng dẫn về cách đối phó với những sự kiện lạ lùng dường như quá lớn. James Baldwin nhắc nhở chúng ta rằng "lịch sử không phải là quá khứ, nó là hiện tại".

Chúng ta đang ở trong một thời điểm quan trọng của lịch sử. Virus Corona không chỉ ảnh hưởng đến cơ thể con người, nó còn làm nhiễm độc các nền kinh tế, việc sản xuất hàng hóa và giáo dục. COVID vào tháng 10 năm 2019, năm ngoái ngay trước khi bùng phát có rất ít điểm tương đồng với COVID vào tháng 10 năm 2020. Các nghiên cứu đã được công bố trong những năm trước về tương lai dường như nói về một thế giới lạ nào đó, không liên quan gì hết với thế giới chúng ta đang thấy hàng ngày. Chúng ta có rất ít ý niệm về tháng 10 năm 2021, một năm kể từ bây giờ sẽ như thế nào, không biết nó sẽ giống với tháng 10 năm 2019 hoặc 2018 hơn hay với tháng 10 năm 2020. Hay nói một cách khác, chúng ta có thể hiểu tháng 10 năm 2000 rõ hơn nhiều so với ngày này tháng 10 năm 2020.

Đại dịch đang uy hiếp cả thế giới vào thời điểm chúng ta đang phải đương đầu với nhiều vấn đề lớn của xã hội con người: sự bất bình đẳng trong việc dưới 10% dân số sở hữu trên 90% tài sản trên thế giới, hàng triệu người di cư từ các nền kinh tế kém phát triển vào các khu vực giàu có hơn, dân số tăng nhanh hơn 1.5 tỷ trong ba thập niên, tuổi thọ trung bình tăng từ 65 lên 70 trong thế kỷ mới, người trên 60 tuổi tăng gấp đôi so với năm 1990, dân số tăng không quân bình: Tỷ lệ sinh của Bắc Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản không đủ để duy trì số lượng công dân hiện tại ở các xứ này. Đồng thời, sự gia tăng quá lớn trong những khu vực châu Phi cận Sahara và khu vực Tây Âu Á đang làm thay đổi mật độ dân số và mặc dù tỷ lệ sinh thấp hơn ở một số khu vực, tổng số người trên hành tinh của chúng ta tiếp tục tăng với tốc độ nhanh.

Đây không phải là lần đầu tiên con người phải đối mặt với sự bất bình thường trong cuộc sống hàng ngày như vậy. Khi còn nhỏ, tôi đã nghe những câu chuyện về các vấn đề của đại dịch.

Mẹ tôi trong những năm cuối tuổi thiếu niên được đào tạo để trở thành một y tá vào năm 1918 khi đại dịch “Bệnh Cúm” xảy ra đã giết chết khoảng 50 triệu người. Bà nhắc các con rửa tay nhiều và không được chạm vào mắt hay mặt, lúc đó chúng tôi cho rằng phiền phức và không cần thiết phải làm. Đến bây giờ chúng tôi mới thấy một đợt bùng phát tương tự và hiểu được những lo lắng của mẹ và tất cả chúng tôi đều ước rằng mẹ còn sống để chúng tôi có thể xin lỗi bà, vì đã phản kháng lại những lời khuyên đầy kinh nghiệm của mẹ lúc đó.

Năm 1947, Albert Camus đã viết một câu chuyện hư cấu có tựa đề “Bệnh Dịch”, về một trận dịch ở một thị trấn thần thoại của Algeria, cuối cùng đã giết chết tất cả cư dân ở đây vì họ đối phó chậm chạp trong việc thay đổi những thói quen hàng ngày. Mọi người có thể nhận ra thông điệp này bởi vì họ vừa phải trải qua Thế Chiến thứ hai đã giết chết hàng triệu người và san bằng nhiều thành phố lớn. Cũng như chúng ta vẫn cố gắng hiểu rõ sự tàn phá của Thế Chiến thứ hai và tiếp tục đặt câu hỏi về có chuyện gì không ổn đã xảy ra mà xã hội có thể tự hủy hoại đến vậy, sau này người ta cũng đặt câu hỏi tương tự khi nhìn lại thời điểm hiện tại. Họ sẽ đánh giá chúng ta, đặt ra câu hỏi ai đã quản lý khủng hoảng có hiệu quả nhất. Họ cũng có thể đặt câu hỏi rằng các Phật tử đã làm gì trong thời điểm đó của lịch sử.

Phật giáo có những giáo lý có thể áp dụng được trong hoàn cảnh lịch sử khác thường của chúng ta ngày nay không? Tôi tin rằng có.

Đại dịch có lẽ đã tạo ra một bước ngoặc trong lịch sử nhân loại trên nhiều lãnh vực. Điều này khiến tôi nhớ lại câu chuyện kể về Tất Đạt Đa và bốn hình ảnh điển hình của cuộc sống mà ông đã chứng kiến trong chuyến du hành ra thăm bàng dân thiên hạ.

Cũng như chúng ta ngày nay đang bị buộc phải thừa nhận bệnh tật, đặc biệt là ở những người cao tuổi, đã đưa đến cái chết cho nhiều người, Tất Đạt Đa đã nhìn thấy một người đau khổ vì bệnh tật, những người già lom khom vì tuổi tác và yếu đuối, và buồn phiền nhất là một xác chết vây quanh bởi những người khóc lóc đưa đám. Dù rằng điều này thường được dùng là những ẩn dụ tiêu biểu cho các giai đoạn của cuộc đời, nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, bệnh tật, tuổi già và cái chết là những thực tế ảnh hưởng một cách chóng mặt chưa từng có đến dân số toàn cầu. Lúc đầu, Tất Đạt Đa khi đi ngang qua những con phố đông đúc của thành phố, chắc chắn rằng những gì ông chứng kiến đang xảy ra với những người khác không liên quan gì hết tới gia đình ông, và giống như những người trong tiểu thuyết của Camus, không hoàn toàn chấp nhận những gì xảy ta trong thế giới trước mặt và những hệ quả của chúng.

May mắn thay, Tất Đạt Đa được người đánh xe ngựa nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng những gì ông đang chứng kiến là số phận chung của toàn thể loài người. Sự thật vỡ vụn trong kiến thức khi ông nhận ra những điều bất ngờ và ngoài ý muốn này của thực tế. Tôi là một người già và dù muốn hay không, tôi cũng trải qua sự suy yếu trong quá trình lão hóa, và bây giờ tôi phải đối mặt với sự thật rằng còn sống sót sau COVID là một cơ hội mong manh đối với tôi. Ba thành viên trong họ tộc tôi đã chết.

Không còn là một ẩn dụ, ba Đại Sứ Giả bệnh tật, tuổi già và cái chết đang rình rập như những cái bóng.  Đối với tôi câu chuyện cũng không đến nỗi tệ hại cho lắm, tôi có một cuộc sống đầy đủ và những người đang có mặt ở đây đã giúp tôi về việc đó. Trên thực tế, Ba Đại Sứ Giả này là những người thầy tuyệt vời và giúp chúng ta bớt đi những hành vi tai hại chẳng hạn như kiêu ngạo hay thấy mình có quyền được hưởng những gì mình muốn và đòi hỏi. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta đều là anh chị em trong cuộc sống này và những gì chúng ta chia sẻ được với nhau có thể nhiều hơn sự khác biệt. Đó chính là mối thân tình cơ bản để chia sẻ bệnh tật, tuổi già và cái chết với chúng sinh và tất cả mọi người mình đang tiếp xúc.

Tất Đạt Đa đã nhìn thấy gì trong cảnh tượng thứ tư? Trước những bi kịch diễn ra từ ba Đại Sứ giả, có một người quan sát và cũng là người tham dự.

Một người đứng trong phong thái điềm tĩnh dường như không bị ảnh hưởng bởi tất cả các khía cạnh của đời sống đang khuấy động tâm tư của người trẻ tuổi. Nhìn thấy sự tĩnh lặng đáng kinh ngạc này trong tư thế của một người, Tất Đạt Đa được cho biết rằng nhân vật đơn độc này là người đã nhìn thấy tất cả, và thông qua tu tập và phát triển nội tâm đã đạt đến mức độ bình tĩnh chấp nhận mọi diễn biến của đời sống. Điều này quan trọng ở chỗ chẳng những đã cho vị hoàng tử trẻ thấy được toàn bộ thực tế của đời sống, mà còn đoan chắc với ông rằng trong khi có sự đau khổ cũng có phương cách chúng ta có thể học được để đối phó với nó. Chúng ta được trang bị khả năng để biết và hiểu rõ về bản chất của cuộc sống cũng như tất cả những thay đổi và đau khổ của nó, nhưng chưa từng trải về bình an nội tâm. Làm thế nào để có thể nhìn thấy những thực tế cùng với những hoàn cảnh khó chịu khó tránh này, thậm chí cái chết, mà chỉ đứng yên trong tư thế bình tĩnh? Có lẽ bài học lớn nhất mà Tất Đạt Đa phải học là sự bình tĩnh chấp nhận thực tại này không phải là trạng thái dửng dưng. Tôi xin kể lại một câu chuyện của chính bản thân khi tôi đến thăm một nhà tù.   

Câu chuyện tôi kể cho các tù nhân về phương pháp tôi áp dụng để đối phó với tình trạng giao thông chậm trễ kéo dài trên đường cao tốc không liên quan gì hết đến đời sống hàng ngày của những người tôi tiếp kiến. Thế nhưng, tôi muốn mô tả những suy nghĩ và hành động của mình cùng với nỗ lực thực hành những gì tôi thường dạy. Sáu Ba La Mật của trí tuệ bao gồm sự kiên nhẫn hoặc nói hay hơn là bình tĩnh chấp nhận. Vì vậy, việc đang ở giữa đoàn xe bị kẹt chỉ biết đứng yên hay bò khiến tôi lo lắng về việc bị trễ giờ hẹn, tôi đã tập nhận thức về nhịp thở của mình và có thể bình tĩnh cùng chế ngự được sự lo lắng cũng như tức giận về tình trạng giao thông của mình. Nhưng… như tôi nhận ra sau đó, sự tự mãn của tôi về việc đã giữ được sự bình tĩnh của bản thânchấp nhận hoàn cảnh ở một mức độ nào đó khác xa với trí tuệBa la mật.

Một trong những tù nhân đã giơ tay khi tôi kết thúc câu chuyện về việc tôi thỏa mãn trong việc chế ngự được sự thiếu kiên nhẫn của mình trên xa lộ, và hỏi tôi: "Thưa giáo sư, khi ông đang ngồi trên xe của mình trên xa lộ bình tĩnh chấp nhận vấn đề, ông có thương hại cho tất cả những người cùng kẹt xe và cũng sợ trễ giống như ông? ” Tôi cảm thấy như thể anh ấy đã đóng đinh tôi vào tường và lấy đi hơi thở của tôi. Bị cứng họng một lúc khá lâu, cuối cùng tôi cũng phải thừa nhận với tù nhân hỏi và mọi người rằng “Không, tôi không để ý đến họ”. Sau buổi học, tôi hỏi tù nhân đó làm thế nào mà anh hiểu sâu sắc đến mức phát hiện ra lỗ hổng trong hành động của tôi.

Tù nhân đó nói rằng anh ta đã ở trong tù 18 năm và ngủ mỗi đêm trong một căn phòng lớn với 200 tù nhân khác. Anh khổ vô cùng với chuyện đèn được bật sáng cả đêm, rồi nghe tiếng ngáy của bạn tù, đôi khi nghe cả tiếng la hét trong những giấc mơ hải hùng, tiếng nghiến răng căng thẳng cùng với tiếng khóc lóc than thở thường xuyên.  Một đêm nọ, sau khi đã thiền định được vài năm, anh ta đột nhiên không còn thấy đau khổ nữa với cảm giác vô cùng thương cảm với mọi người trong phòng. Anh nhận ra rằng họ cũng giống như anh, họ đều phải chịu đựng tiếng ồn và tất cả những gì xảy ra chung quang và trong khoảnh khắc đó, anh đã tha thứ cho họ và quyết định cố gắng hết sức để giúp đỡ họ trong khả năng của anh. Anh ta nói, "Thưa giáo sư, ông bị kẹt xe, còn tôi bị kẹt người". Đúng là một vị thầy! Thầy đây rồi! Một người có lẽ đã bị giam cầm cả đời, không có bất kỳ tài sản nào, không còn sự  liên hệ nào với gia đình gần hơn một thập kỷ, nhưng người này có thể tiếp cận được cả sự bình tĩnh chấp nhận lẫn lòng từ bi  thông cảm với những người chung quanh đời mình.

Khi Tất Đạt Đa thấy được sự bình tĩnh trong cảnh tượng thứ tư, đó không phải là một dấu hiệu của trạng thái dững dưng, mà là lòng từ bi trong hành động. Một số tù nhân khác ngày hôm đó nói rằng họ đã bị thu hút bởi các lớp thiền từ những người khách Phật tử vì họ thấy người hỏi tôi ngồi trên giường của anh ta ngày này qua ngày khác trong lặng im. Cuối cùng, từng người một đến gần người ngồi thiền và hỏi về những gì anh ta đang làm. Có sự hiện diện của một người điềm tĩnh và đầy chấp nhận ở giữa họ, hóa ra là điều từ bi qua hành động. Cũng giống như người được Tất Đạt Đa nhìn thấy, người tù đặt câu hỏi cho tôi đã dạy người khác bằng cách lấy chính mình làm gương. Chúng ta đang phải đối mặt với những thay đổi chưa từng thấy trên thế giớimọi người đang phản ứng theo nhiều cách khác nhau. Cần phải có những người định tâm được và đầy cảnh giác này để làm thí dụ cho một lối sống có thể mang lại sự bình anlòng tốt về cho nhận thức của chúng ta.

Thế kỷ mới của chúng ta đang đầy dẫy sự căng thẳngbất hòa trong cấu trúc xã hội.

Quần chúng đang tự phân ra thành nhiều khối dị biệt và điều này được phản ánh trong các mối quan hệ rạn nứt giữa hàng xóm, bạn bè và gia đình. Sự khác biệt đã trở thành những vị trí bất di bất dịch mà không bên nào có thể tiếp xúc với bên kia một cách có ý nghĩa. Giáo lýthực hành Phật giáocống hiến được gì không trong việc giải quyết hoàn cảnh bế tắc này được thể hiện bằng sự tức giận, và thậm chí đáng buồn là đôi khi, bằng bạo lực? Khi mỗi bên la hét với người bên kia đường ranh bằng những lời thóa mạ có thể lên đến đỉnh điểm của sự hận thù, làm thế nào để người hai bên có thể giúp đỡ lẫn nhau?

Không ai thực sự lắng nghe những lời la hét và công kích, thay vào đó chúng ta thấy mình đang ném lại những lời chế nhạo và lăng mạ tương tự. Phật giáo có một lịch sử lâu dài về các cuộc tranh luận và đối thoại trong đó mỗi bên đưa ra lập trường riêng của mình. Những cuộc đối thoại tranh luận này có thể kéo dài hàng thế kỷ trước khi đạt được một giải pháp. Sự khác biệt so với phần lớn các tranh cãi hiện nay của chúng ta là đã có sự đối thoại, giao tiếp với bên kia trong truyền thống Phật giáo. Khi những người hành hương Trung Hoa lần đầu tiên đến Ấn Độ, họ đã rất ngạc nhiên khi thấy rằng các tu viện mở cửa cho các học viên từ nhiều trường phái đến chung sống hòa thuận với nhau. Lòng nhân ái với những khác biệt trong niềm tintu hành này giống như sự bình tĩnh chấp nhận mọi gian khổ của đời sống là một tấm gương chúng ta có thể học hỏi.

Khi có những cuộc họp mặt quốc tế lớn, người ta cảm động trước việc Phật tử từ bất kỳ vùng miền nào, trường phái nào, quần áo tu sĩ nào, giới tính nào cũng hòa nhập tự do. Làm thế nào để có thể bỏ qua những khác biệt đáng kể và tại sao những người tham gia có thể chào đón nhau với sự chấp nhận? Tôi không có ý ám chỉ rằng Phật giáo không có vấn đề gì hay nó là một tổ chức thập toàn. Tuy nhiên, trên cơ bản, nó đã quản lý được những khác biệt sâu sắc về thực hành cũng như niềm tin để tránh chiến tranh hoặc việc giết những người không thuộc truyền thống của riêng mình. Sự chia rẽ lớn của chúng ta ở Mỹ vào thời điểm này một phần được tạo ra bởi sự thiếu lòng nhân ái đối với cuộc sống và các vấn đề của phía bên kia. Nếu có người quá khích, phải có lý do cho hành vi đó. Rất dễ để lên án các hành vi nhưng khó hơn nhiều khi cố gắng hiểu được đâu là gốc rễ của các vấn đề.

Một lần nữa, chính những chuyến thăm nhà tù đã mở ra cho tôi một cái nhìn và một số hiểu biết về một cụm văn hóa bị chi phối bởi những vấn đề mà tôi chưa bao giờ gặp trong đời. Khó có thể đối thoại được nếu cả hai bên không biết về sự thiệt hại và nỗi đau của đối phương. Có thể nói gì về những người mà chúng ta thấy đáng ghét và phá hoại? Nếu biết toàn bộ câu chuyện về cuộc đời họ, liệu chúng ta có thấu hiểu và bao dung hơn không? Nếu chúng ta biết những nỗi sợ hãi đang hành hạ người khác, liệu chúng ta có hiểu không có cách gì họ giúp đỡ những người mà họ sợ hãi không? Nếu chúng ta biết những lo lắng về cuộc sống hàng ngày của người khác, liệu chúng ta có thể đồng cảm với việc họ quá chú tâm vào tiền bạc và không có khả năng hào phóng không? 

Thế kỷ hiện tại của chúng ta với sự hỗn loạn và những thay đổi dữ dội ảnh hưởng đến cách chúng ta tụ họp thành nhóm, cách chúng ta kinh doanh, cách chúng ta tiếp tục cuộc sống, làm tôi nhớ đến câu chuyện trong Kinh Pháp Hoa.

Trong kinh có một chuyện kể về một dinh thự lớn trong đó một nhóm trẻ con đang chơi với nhiều đồ chơi và trò chơi. Người cha đến gần ngôi nhà thì thấy nó đang bốc cháy và những đứa trẻ đang gặp nguy hiểm. Người cha la lớn kêu gọi chúng ra khỏi nhà vì nó đang cháy. Tuy nhiên, chúng không hiểu ý của người cha nói nguy hiểm là gì nên vẫn mải mê với trò chơi của mình và không đáp lại. Cuối cùng người cha phải gây sự chú ý của chúng bằng cách hứa một thứ gì đó lớn hơn bất kỳ món đồ chơi nào chúng đang chơi …. những chiếc xe kéo bởi những động vật khác nhau.

Những đứa trẻ con thích những vật ông hứa hơn nên cuối cùng ra khỏi nhà. Nhưng thực sự không có chiếc xe nào hết, thay vào đó, người cha nói rằng có một thứ thậm chí còn tốt hơn, một chiếc xe lớn hơn mà tất cả chúng có thể đi cùng nhau. Ở California, câu chuyện về những ngôi nhà cháy và ngọn lửa không chỉ là một ẩn dụ. Mỗi mùa thu bây giờ là một thế giới đầy lửa và khói. Các trường học đã bắt đầu lên thời khóa biểu cho “những ngày khói bụi”, giống như ở những vùng khí hậu lạnh hơn có những “ngày tuyết rơi” không thể đi học. Thế giới của chúng ta đang nóng lên và chúng ta cũng giống như những đứa trẻ đó vẫn chỉ muốn tiếp tục tận hưởng những đồ chơi và thú vui của mình và không quan tâm nhiều đến điều đó.

Người cha trong Kinh Pháp Hoa còn phải làm gì nữa để gợi được sự chú ý của chúng ta? Điều gì có thể hấp dẫn đến mức làm cho chúng ta sẵn sàng thay đổi thói quencách sống của mình? Vấn đề sinh tồn có phải là phần thưởng đủ để chúng ta tác động không? Câu chuyện về ngôi nhà cháy này, là một cách nhắc chúng ta nhớ là phải cảnh giác về những gì đang xảy ra xung quanh. Thay vì chỉ giới hạn trong việc bình tĩnh chấp nhận, người cha trong câu chuyện đã cứu những đứa trẻ bằng cách bước vào cuộc sống của chúng và hiểu những gì chúng thích. Một số người nói rằng người cha đã nói dối với chúng để đưa chúng ra khỏi ngôi nhà đang cháy.

Có cần nói dối để gây sự chú ý của mọi người không? Chúng ta có phải đưa ra những lời hứa ngông cuồng để thúc đẩy mọi người hành động không? Các lời dạy của Phật đang nói với chúng ta rằng để dạy và dẫn dắt mọi người đi theo hướng có hiệu quảan toàn, người ta cần có kỹ năng giảng dạy. Chỉ nêu điều gì đó mà không thu hút được sự quan tâm của người nghe là chưa đủ. Cần phải thu hút sự chú ý của mọi người, cung cấp cho họ thứ gì đó họ cho là quý giá để họ có thể thay đổi hành vi của mình. Trong cuốn tiểu thuyết của Camus, không ai có thể đưa ra một sự hấp dẫn nào để lay chuyển người dân của thị trấn Bắc Phi và tất cả đều bỏ mạng. Tôi nghĩ rằng chúng ta đang ở trong một ngôi nhà đang cháy và có những lời kêu gọi chúng ta phải thay đổi. Nhưng câu hỏi quan trọng là phần thưởng nào đang được đưa ra có đủ sức hấp dẫn để làm hầu hết chúng ta thay đổi. Ngay bây giờ với các hạn chế do COVID tạo ra, lời kêu gọi dường như gần gũi nhất với trái tim của chúng ta chính là: nếu bạn thay đổi hành vi, chúng ta có thể trở lại phong cách sống trước đây.

Nhưng giống như những đứa trẻ trong Kinh Pháp Hoa, khi chúng ta chế ngự được virus, liệu kết quả có như chúng ta mong đợi không? Thế giới của chúng ta đã thay đổi và nó sẽ không bao giờ như cũ. Chúng ta phải hiểu rằng tương lai của chúng ta sẽ không bao giờ giống như quá khứ của chúng ta. Nhưng người cha trong câu chuyện nói với những đứa con của mình, chúng thất vọng khi không nhìn thấy chiếc xe đồ chơi có động vật nhỏ: "Đừng vội thất vọng vì thiếu thứ bạn muốn, bạn có thể có thứ lớn hơn." Chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong tương lai khi nhận ra rằng quá khứ đã mất vĩnh viễn.

Tôi có thể hình dung ra người cha đang đứng trước mặt chúng ta khi chúng ta đối mặt với thực tế của sự thay đổi này. Ông ấy có thể nói với chúng ta: "Quá khứ không phải tất cả đều tuyệt vời, không phải tất cả hạnh phúc, không phải tất cả đều từ bi, không phải tất cả đều khôn ngoan, không phải tất cả bao dung, không phải tất cả lành mạnh, không phải tất cả bền vững ... các bạn nên đặt những mục tiêu cao hơn những gì đã đạt được trong quá khứ." Nếu những lời dạy của Phật từ câu chuyện này có điều gì đó để nói trong thời kỳ khủng hoảng của chúng ta, thì đó là: “Hãy đạt được mức độ nhận thức cao hơn, nhận ra sự cần thiết phải có những cộng đồng mạnh mẽ hơn đáp ứng được nhu cầu của tất cả các thành viên, hãy trưởng thành trong cách sống, và rộng lượng với gì có thể được mang lại từ những thay đổi. "

   Trường học của chúng ta sẽ là một phần của tương lai mới này. 

Người sáng lập trường Đại HọcHòa Thượng Tinh Vân, qua sự nghiệp giảng dạy của ông đã thúc giục những người theo ông phải thành công, trở thành những người xây dựng gia đình vững mạnh, có tinh thần quảng đại. Ông nhắc nhở chúng ta rằng "chúng ta có đủ", đủ nguồn lực, đủ ý tưởng, đủ hỗ trợ cho nhiệm vụ đặt ra trước mắt trong hành trình xây dựng lại một thế giới mới, một nền kinh tế mới, một hệ thống giáo dục mới, một cộng đồng mới dựa trên sự bình tĩnh chấp nhận bản chất của cuộc sống và hành động nhân ái đối với những người cùng chia sẻ với chúng ta thực tế của bệnh tật, tuổi già và cái chết. Đau buồn vì những gì đã mất là điều đương nhiên, nhưng một khi chúng ta bình tĩnh chấp nhận thực tại đó, thì vẫn có “đủ”, có “đủ” để chúng ta tiếp tục đi tới khi chúng ta biết cách sống chung và đón nhận cuộc sống với tất cả những thay đổi của nó.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2753)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2534)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2229)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2359)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2672)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3251)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2468)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2543)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2213)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3049)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2719)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2562)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2600)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4102)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2775)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3069)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3315)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3004)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2611)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2636)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2750)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3268)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2132)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2601)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2053)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2942)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2720)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant