Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Động - Trong - Bất Động !!!

11 Tháng Giêng 202118:58(Xem: 4595)
Động - Trong - Bất Động !!!

Động - Trong -  Bất Động !!!

Nhuận Hùng

Chánh Niệm Và Tỉnh Giác

 

Đúng vậy, cuộc đời không thể yên ổn như mình tưởng, dòng sông nào cũng có lúc dậy sóng, không thể nào bình lặng mãi như mặt nước mùa Thu. Song những nạn kiếp của con người gây tạo ra bao nhiêu là ác nghiệp hay thiện nghiệp, chúng cũng đều theo thời gianbáo ứng, có những sự kiện báo ứng ngay hiện tại, nhưng cũng những  câu chuyện ghi lại mãi đến nhiều kiếp sau mới trổ ra quả báo thật là khiếp đảm…!

 

Thời gian chẳng khác nào vó câu qua cửa sổ.

 

 Nắng quái, mưa nguồn, sầu thảm …!

 

Bao nhiêu cảnh tượng hãi hùng nay đã trôi qua…!

 

Có một câu chuyện xảy ra vào niên hiệu…thời vua chúa không mấy hiền lương, dân chúng rất là ai oán - than vãn khắp trời…! Được kể lại tại  Hoa Lục thời trước tức là Trung Quốc bây giờ. Câu chuyện kể rằng:

 

“Chàng thanh niên…không rõ nguồn gốc từ đâu đến, gặp đại nạn… rớt xuống từ trên đỉnh núi Tung Sơn, lúc đó chàng ta ngất xỉu, khi có người phát hiện cứu mạng mới biết chàng đã bị mất trí nhớ, vì va chạm vào vật cứng.

 

Nhờ đại phước nên còn sống và có người cứu giúp mang về nuôi nấng và điều trị bệnh mãi đến một thời gian sau, chàng thanh niên này mới hồi phục lại trí nhớ. Sau đó chàng lại tiếp tục lên đường làm tròn nguyện vọng của mình, trong quãng đường dài dăng dẳng chàng nhớ lại 5 năm về trước ân nhân cứu mạng là “Lão Bá” và cũng là vị sư phụ thứ hai đã truyền dạy cho chàng rất nhiều võ công và những cách thức cư xử …và khi gặp tình huống khó khăn…Kể từ khi tạm biệt Lão Bá, rời xa động Mãn Xà, chàng mang một ý nguyện sẽ tìm lại sư phụ vị thầy chính của chàng đã thất lạc bao năm qua.

 

Trước lúc chia tay, Lão Bá trao cho chàng ba phong bì, gói thứ nhất, thứ nhì và gói thứ ba lớn hơn so với hai gói kia.  Kèm theo lời căn dặn, khi nào cần thiết con hãy mở ra và theo đó mà làm, con phải thận trọng trong mọi tình huống...Lão Bá cũng không quên nhắc thêm câu:

 “Khi mê thì thầy độ, khi ngộ con độ lấy con”

 

Thời gian như dừng lại, không gian dường như đứng yên khiến chàng vẫn nghe được con muỗi bay qua. Chưa hết, Lão Bá còn nói tiếp:

 

 “Chuyến đi này rất nhiều gian nan, nhưng Lão mong rằng con sẽ gặp lại người thân và làm rạng danh cho môn phái”…

-Chàng lạy tạ Lão Bá và ghi nhớ những lời chỉ giáo, sau cùng. Chàng không thể nào ngăn những giọt lệ từ khóe mắt. Phút chia tay thật ngậm ngùi trước cảnh biệt ly kẻ đi - người ở. Lão Bá là vị ân nhân cứu mạng và cũng là sư phụ lúc nào chàng cũng kính trọngvâng theo lời chỉ giáo.

 

Sau đó chàng lạy tạ Lão Bá rồi lên đường đi ngay, linh tính báo trước việc không hay sẽ xảy ra tại nơi này, nên Lão Bá giục chàng lên đường “càng sớm càng tốt”.

 

Lần lượt làm lữ khách trên bước đường hành hiệp tha phương nơi xứ lạ, từ tỉnh này sang tỉnh khác, chàng cứ đi đi mãi, chưa trụ vào đ âu. Tuy biết rằng chặng đường phía trước rất gian truân hiểm trở có thể mất mạng như không. Cuối cùng chàng liền tìm đến một ngọn đồi…thật yên tĩnh để luyện tập, võ công. Nhưng bao tháng ngày qua chàng cũng không đi lọt qua cửa ải khó khăn này... Tâm ý chàng cứ lãng đãng, thật khó khăn không thể bắt tâm dừng lại được, dù là nơi núi cao tột đỉnh không một ai tìm đến, nhưng tâm vẫn cứ chao đảo. Vì sự việc chưa có câu giải đáp. Ý tưởng của chàng lúc này chưa được:

 

 “Thong dong như đám mây mùa hạ, như giòng nước mùa Xuân”.

 

Chàng nhớ đến những gì đã học được từ Lão Bá chỉ dạy:

 

“Nếu như thân con bất động không phải từ tâm bất động và ngược lại, nó mỏng như làn sương ẩn hiện ở đâu đây. Chúng sẽ biến cảm thức thành đối tượng và đối tượng thành cảm thức. Dường như không còn năng, sở, chủ và khách. Nhưng trạng thái ấy không phải là bất động. “Bất động” phải là trạng thái cao nhất của “sinh động”. Nó chuyển động quanh trục của một tâm điểm “không hề giao động”. Ở đây (nó) tỉnh thức và bén nhạy như một tấm gương phản chiếu. Hình ảnh nọ kế tục hình ảnh kia, trong sáng, rõ ràng và không nhầm lẫn. Bất động chẳng phải là một sinh thể vô hồn. Có thể là vô tâm, vô niệm nhưng không phải là hư vô trống rỗng. Vô hay Hữu đều là những chướng ngại cho giác tánh do vọng tâm mà ra”.

 

Chàng lại thở dài. Thật khó mà lãnh hội điều đó bằng tri thức thì lấy gì để thể nhập, để biến thành khí huyết, để thông vận tự nhiên như hít thở khí trời. Và chàng chợt đâm ra hoài nghi những điều mình đã học:

 

“Đây là bí quyết Võ Học hay là yếu chỉ Phật Học?”

 

Rồi từ đó, chàng đăm chiêu, quyết theo đuổi cho đến cùng thời gian không còn là gì đối với chàng nữa, mười năm trôi qua trong hang động tưởng chừng như mới ngày nào bước vào hang động này.

 

Sau những giờ tập luyện miệt mài với kiếm côn, thương- giáo đủ loại binh khí, chàng ngồi yên tĩnh trên một tảng đá lạnh như băng có lúc chàng tưởng như đã chết cóng. Nhưng nhờ thể lực và sự tập luyện của chàng được Lão Bá truyền lại cho nên chàng vẫn bình thản không gì xảy ra. Có những lúc chàng ôn nhẩm lại những gì đã học:

 

 “Thế nào là (động trong bất động?)” Chàng thầm nhủ một mình:

“Ta thử hình dung ra bánh xe quay chung quanh trục. Bánh xe chuyển động. Cũng vậy, phải bám trụ vững chắc, kiên định vào một tâm điểm. Tâm điểm này ta có thể tạm gọi là Phật Địa, chơn Địa, Tuệ Địa hoặc danh từ gì đó tương tự như thế, trước khi ứng xử, tiếp vật, đón đỡ ghi nhận các Pháp từ thế giới xung quanh đến với ta. Bất động không phải là một cái để mà tìm kiếm, nắm bắt. Nó là cái để mà liễu tri, giác liễu. Tâm điểm, bất động này nó không ở ngoài, không ở trong. Không phải hữu thức, chẳng chẳng phải vô thức. Chẳng thể nói có, chẳng thể nói không. Không nổ lực, chúng tác ýbiến hóa. Không lộ diện, chúng hữu hiện, chi phốiquyết định tức thời, phản ứng đúng lúc. Nó làm cho dòng vận chuyển được liên tục và làm cho sinh lực chảy trôi không gián đoạn. Chính ở đây ta chiếm thế thượng phong tuyệt đối quyết định trò chơi sinh tử” Ôi! võ học từ đây…là chìa khóa cho ta luyện tập “Tâm bất biến trong dòng đời vạn biến…!” ta cần phải cố gắng thật nhiều hơn thế nữa.

 

Chàng càng ngẫm nghĩ: “Ôi! Rõ ràng bài tâm pháp đã ở ngoài sự lãnh hội thông minh nhất. Càng nghe, càng rối, càng thực hành, càng loạn. Động trong bất động? Bất động mà động? bất độngtỉnh thức chứ không phải là cái ngưng động vô tri đối lập với vận hóa. Nhưng ở đây sao lại là: “Sự vắng bóng tuyệt đối của hữu thức, của ý tưởng của tự niệm?”.

 

Tại sao là thế được, chàng tự hỏi và tại sao những tấm gương trong sáng chụp bắt (thủ) và buông thả (xả) là hai tác động không gián cách, không thời gian? Nó ở trong khoảnh khắc sinh và diệt của ý giới nhưng ý giới không phát lộ được nó; Nó nắm giữ ý giới như người kỵ sĩ lão luyện cầm cương ngựa trên đường thiên lý”.

 

Đây chính là tâm điểm từ đó khởi sinh “sự tinh nhuệ, mẫn tiệp, sự linh hoạt cần thiết nhất định” Nó động ta động. Nó tịnh ta tịnh. Không trước ý, ta biết hoàn toàn (toàn giác). Không khởi động ta làm chủ nó”. Và cứ thế, chàng luyện tập từ năm này cho đến năm khác…Mọi sự việc hiện hữu xảy ra bên ngoài, chàng không hề hay biết gì cả. Những tháng ngày hãi hùng trôi qua đã in dậm vào tâm khảm của chàng có những lúc chàng nhủ thầm:

 “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ,

 Liễu ấm hoa minh hựu nhất thôn”

 

 (Núi cùng sông bặt, tưởng hết đường

 Tàng liễu, hoa giăng, hiện thôn trang). 

 

Nghĩa:

 Núi đã hết, sông đã tận cùng, nghĩ rằng không còn đường đi nữa. Nhưng sau tàng cây liễu, sau đám hoa tươi kia lại xuất hiện một thôn làng.

 

Tháng ngày trôi qua, chàng cố công trong việc trau giồi kiếm pháp. Chàng thầm nghĩ:

 -“Sống, chết chỉ là một khoảnh khắc mong manh” Sanh- tử là sự đại - chàng càng nghĩ, ánh mắt đăm đăm nhìn vào thanh kiếm. Tâm trí chàng mang mang, cảm giác trống vắng, hụt hẫng xâm chiếm lòng chàng. Hình ảnh của sư phụ và những huynh đệ thuở xa xưa hiện ra trước mắt chàng.

 

Bổng nhiên nhớ lại năm xưa cũng ngồi như thế, lại có một viên sỏi nhỏ từ đâu bay đến chạm vào đầu chàng. Những ý nghĩ mênh mang chợt biến mất trở về thực tế, chàng mới thực hiểu rằng Lão Bá luôn luôn chỉ dạy mình bằng cách phải tập trung tư tưởngđề phòng và phải tránh né bất kỳ lúc nào, dù là nấu ăn, chẻ củi hoặc lúc đang tập dợt…Lão Bá quả tình là vị thầy đáng kính của chàng, người đã giúp chàng tu luyện để sau này sẽ trở thành một tay kiếm lừng danh, trừ gian, diệt lận…cứu đời và mong mỏi kèm theo sự hy vọng chàng sẽ đứng lên gầy dựng lại giang sơn từ tay vị vua tham tàn, bạc nhược chỉ biết sống trên xương máu dân lành. Một hoài bão mà chàng cũng như Lão Bá từng trò chuyện, khiến chàng luôn luôn khắc kỷ vào tâm khảm..

 

 Nhớ lại, đôi mắt trầm tư của Lão Bá nhìn thấu suốt và thường hay chỉ dạy cho chàng:

 “Thần kiếm nguyên lai vô nhị đạo”.

 

Thần đạokiếm đạo vốn dĩ chỉ là một. Vì cả hai cùng dẫn đưa con người đến cùng một mục đích là diệt ngã. Có nghĩa là diệt được bản ngã của chính mình, không vướng bận vào con đường lợi danh, tạm gọi là tham - sân - si, mạn nghi ác kiến.  Cái (bản ngã) là chướng ngại nhất trên con đường tu luyện. Hãy học hạnh buông xả, và ý thức với cuộc đời sống sao cho có nhân có hậu biết thương yêutha thứ cho mọi người khi họ lầm lỗi, biết thức tĩnh đừng vì lợi danh mà chà đạp danh dự người khác một cách phũ phàng…! Lão Bá còn nhắc nhở thêm:

 -“Tâm vô trụ tức vô niệm là bất động”.

 “Khi luyện đến tột đỉnh của kiếm pháp, tâm không còn vướng mắc vào ý niệm thắng bại, cao thấp thì mới đạt được kết quả…Không nên khởi ý niệm tấn công đối phương trước, phải an nhiên tự tại, tâm được thảnh thơi…” Sau đó, Lão Bá liền khắc lên vách đá câu thơ:

 

 “Tâm vô ưu, thần bất động
khí uy dũng, kiếm vô chiêu
”.

 

Lão Bá tóm lược tinh hoa kiếm pháp của mình chỉ dạy cho chàng như sau:

“Đạo của binh pháp là cái đạo của Trời Đất. Một khi người đã thấu triệt được cái lý của vũ trụ, bắt được cái nhịp của cục diện, người ta có thể an nhiên đối diện với đối thủ mà không hề nao túng”.

 

Khi thấu rõ mọi vấn đề chàng tiếp tục thong dong lên đường làm tròn nhiệm vụ, hy vọng một ngày tươi sáng sau đám mây đen tối sẽ đến với chàng và tìm lại được sư phụ. Gây dựng lại cơ đồ có được hay không là do nơi phước phần của chàng từ nhiều kiếp trước có tạo dựng hay không? Đó còn phải tùy vào nhân duyênduyên phận thầy trò nhiều kiếp gắn bó như keo với sơn. Đến đi tự tại không ai buộc ai cả, hiểu đạo ta cứ vui vẻ tiến thẳng vào rừng sâu sống thong dong với tháng ngày. Vô sự là tiểu thần tiên.”

 

                                    Cali- Santa Ana - Vu Lan – 2012

                                               

                                                     Nhuận Hùng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2228)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2660)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2354)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2668)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2438)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2540)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2711)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2998)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2558)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2593)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4099)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3310)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3003)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2634)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2390)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2597)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2691)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2745)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2557)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2131)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2600)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2906)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2716)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2511)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant