Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán Chiếu Mọi Vật Lệ Thuộc Trên Tư Tưởng Như Thế Nào

26 Tháng Giêng 202118:59(Xem: 3604)
Quán Chiếu Mọi Vật Lệ Thuộc Trên Tư Tưởng Như Thế Nào

Quán Chiếu Mọi Vật Lệ Thuộc Trên Tư Tưởng Như Thế Nào
Nguyên bản: Noticing how everything depends on thought

 Đức Đạt Lai Lạt Ma

Tuệ Uyển

 

Ở đây ngay cả những bông hoa đa dạng rộ nở vui mắt
Và những ngôi nhà bằng vàng rực rở siêu kỳ lấp lánh hấp dẫn
Hoàn toàn không có dấu vết của sự tồn tại cố hữu
Chúng được thiết lập qua năng lực của tư tưởng,
Qua năng lực của nhận thứcthế giới được thành lập. 

- ĐỨC PHẬT

 

Khi chúng ta phát triển một ý tưởng thô về ý nghĩa gì là sự lệ thuộc trên tư tưởng, chúng ta nên tự hỏi mình rằng mọi ngườimọi vật có thường xuất hiện đến chúng ta trong cách này hay không.  Khi chúng ta bị tác động bởi những tư tưởng trong một trình độ vi tế, thật khó để xác định chúng ta nắm bắt chúng như thế nào. Do thế, hãy xem xét một thời điểm khi mà chúng ta cảm thấy thù hận và khao khát mạnh mẽ.  Một con ngườisự kiện thù hận và khao khát dường như cực kỳ cụ thể, ngay cả hoàn toàn không thay đổi, có phải thế không?  Khi chúng ta nhìn một cách sát sao, chúng ta sẽ thấy rằng không có cách nào để thừa nhậnchúng ta đã thấy những hiện tượng như lệ thuộc trên tư tưởng rồi.  Chúng ta sẽ thấy rằng chúng dường như tồn tại trong những điều kiện của chính chúng.

Khi tôi ở vào khoảng ba mươi lăm tuổi, tôi đang quán chiếu về ý nghĩa trong một thông điệp của Tông Khách Ba về vấn đề cái "tôi" có thể được tìm thấy hoặc là ở trong hay tách rời khỏi phức hợp thân - tâm hay không và cái "tôi" tùy thuộc cho sự tồn tại của nó trên nhận thức như thế nào.  Đây là thông điệp

-  Một sợi dây ngoằn ngoèo lốm đốm sắc màu và quấn cuộn lại, những thứ đó tương tự như một con rắn, và khi làn dây ấy được nhận thức trong một vùng ánh sáng lờ mờ, một tư tưởng nẩy sinh, “Đây là một con rắn.”  Về phần sợi dây, vào lúc ấy khi được thấy như môt con rắn, cái tập họp và những phần tử của làn dây ngay cả không ở trong một cung cách tối thiểu nào của một con rắn.  Do thế, con rắn ấy chỉ đơn thuần được thiết lập bởi nhận thức.  Trong cùng cách ấy, khi chúng ta nghĩ cái "tôi" sinh khởi trong sự lệ thuộc trên tâm thứcthân thể, không có gì trong tâm thứcthân thể - không phải là một tập hợp của sự tương tục của thời khắc trước đây hay sau này, cũng không là tập hợp của những phần tử của bất cứ thời điểm nào , cũng không là những phần tử riêng biệt - ở trong ngay cả một cung cách mõng manh nhất là cái "tôi".  Cũng không có ngay cả một điều gì đó mong manh nhất là hoàn toàn khác biệt với tâm thứcthân thể có thể hiểu như cái "tôi".  Kết quả là, cái "tôi" chỉ đơn thuần được thiết lập bởi nhận thức trong sự lệ thuộc trên tâm thứcthân thể, nó không được thiết lập bởi phương thức của thực thể chính nó.

Bổng nhiên, giống như là một tia chớp lóe ngang trái tim tôi, tôi thật là kinh khiếp, trải qua vài tuần tiếp theo, bất cứ khi nào tôi thấy con người, họ dường như là những ảo ảnh của nhà huyển thuật mà trong ấy họ xuất hiện để tồn tại một cách cố hữu nhưng tôi biết là họ không thật sự như thế.  Điều này là khi tôi bắt đầu thấu hiểu rằng thật sự có thể chấm dứt tiến trình của việc tạo tác những cảm xúc tàn phá bằng việc không còn đồng ý đến phương cách cái "tôi" và những hiện tượng khác xuất hiện để tồn tại.  Mỗi buổi sáng, tôi thiền quán về tính không, và tôi nhớ lại kinh nghiệm ấy nhằm để đem nó vào trong những hành vi hằng ngày.  Giống như suy nghĩ hay nói "tôi", giống như trong "tôi sẽ làm như vầy như vầy," sẽ thường gợi lại cảm giác ấy.  Nhưng tôi vẫn không thể tuyên bố rằng tôi hoàn toàn thấu hiểu tính không.

Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐƯỢC THIẾT LẬP BỞI NHẬN THỨC

Vào lúc bắt đầu, những bông hoa xinh đẹp hay một ngôi nhà tuyệt vời xuất hiện để tồn tại trong chính nó và của chính nó xuyên qua từ tâm ý, nhưng vào lúc kết thúc không có gì có thể khẳng định một sự tồn tại như vậy; đúng hơn, sự nhận thức của tâm là cội nguồn của chúng.  Đây là trường hợp của tất cả mọi hiện tượng.  Khi chúng ta tìm kiếm, chúng không thể được tìm thấy tồn tại trong chính tự thể của chúng, mặc dù những hiện tướng là ngược lại.

Qua cách của sự hổ trợ và tổn hại của chúng - là điều lệ thuộc trên ý  thức -  rằng chúng tồn tại.  Chúng đã không bao giờ, đang không bao giờ, cũng sẽ không bao giờ tồn tại từ phía chúng, trong tự thể của chúng.  Chúng tồn tại qua năng lực của tâm thức, qua sức mạnh của những quy ước.

Qua sự trích dẫn vào lúc đầu của chương này, Đức Phật nói rằng toàn thể thế giới lệ thuộc trên nhận thức suy nghĩTương tự như Thánh Thiên nói trong Bốn Trăm Bài Kệ Về Những Nhu Cầu Của Các Vị Bồ Tát:

Từ sự khao khát, v.v...
Không tồn tại nếu khôngnhận thức
Ai với trí thông minh sẽ tin rằng
Đây là những đối tượng thật sự và cũng là nhận thức?

Luận giải của Nguyệt Xứng về thi kệ này biểu thị rằng những hiện tượng chỉ tồn tại trong sự hiện diện của suy tư nhận thức:

Những thứ ấy chỉ tồn tại khi nhận thức tồn tại, và không tồn tại khi nhận thức không tồn tại, là không phải đặt vấn đề, một cách dứt khoát không được thiết lập qua phương cách của chính bản chất của chúng, giống như bị tưởng tượng từ một cuộn dây.

Khám Phá Ý Nghĩa

Chúng ta thấu hiểu thế nào về sự khẳng định của những bậc đại nhân của Ấn ĐộTây Tạng trên vấn đề tư tưởng nhận thức quan trọng như thế nào?  Thật là không thoải mái nếu tin rằng, trước khi mỗi một đối tượng đi vào tầm hiểu biết của chúng ta, thì chúng ta phải có một tư tưởng xây dựng nó ngay lúc ấy.  Bất chấp tư tưởng sinh khởi nhanh như thế nào, cũng sẽ không đủ thời gian cho tất cả tư tưởng cần thiết trong một thời điểm đơn độc của nhận thức thị giác.

Thật thế, những đối tượng ngoại tại là một bộ phận của tiến trình phát sinh ý thức về chúng, như trong trường hợp thấy một cây cối và chỗ xung quanh của nó, nhưng nếu lệ thuộc trên tư duy có nghĩa rằng một tư tưởng nhận thức cần thiết để làm nên mọi thứ chúng ta thấy, điều này sẽ là ngớ ngẩn.  Do vậy, dường như đối với tôi là, cuối cùng, ý nghĩa sự hiện hữu của thế giới được thiết lập bởi tư tưởng nhận thức những đối tượng của nó, không lệ thuộc trên một ý thức, không thể thiết lập sự tồn tại của chúng ngay trong chúng.  Từ nhận thức này, nó nói rằng thế giới - tất cả mọi hiện tượng, cả người và vật - được thiết lập bởi tư tưởng nhận thức.

Thí dụ, rõ ràng rằng những hệ quả tùy thuộc trên các nguyên nhân, nhưng các nguyên nhân cũng thế, trong một ý nghĩa vi tế, tùy thuộc trên những hệ quả.  Mỗi nguyên nhân tự nó là một hệ quả của chính các nguyên nhân của nó, và do thế, sinh khởi trong sự lệ thuộc trên các nguyên nhân tương ứng.  Tất cả những trường phái Phật Giáo thừa nhận rằng những hệ quả sinh khởi trong sự lệ thuộc trên các nguyên nhân.  Ở đây nguyên nhân và hệ quả ở trong một tiến trình thế tục, một hệ quả xảy ra sau nguyên nhân của nó.  Điều này là duyên khởi trong ý nghĩa của duyên phát sinh[1].

Chỉ nhận thức triết lý cao nhất trong Đạo Phật mới chứa đựng một quan tâm bổ sung, bởi vì sự chỉ rõ điều gì đấy như một "nguyên nhân" tùy thuộc trên sự quan tâm về hệ quả của nó, trong ý nghĩa này một nguyên nhân tùy thuộc trên hệ quả của nó.  Điều gì đó không phải là một nguyên nhân trong nó và của tự chính nó; nó được mệnh danh là một "nguyên nhân" trong mối quan hệ đến hệ quả của nó.  Ở đây hệ quả không xảy ra trước nguyên nhân của nó, và nguyên nhân của nó không hình thành trước nguyên nhân của nó; đấy là trong suy nghĩ về hệ quả tương lai của nó mà chúng ta chỉ rõ điều gì đó như một nguyên nhân.  Đây là duyên khởi trong ý nghĩa của duyên mệnh danh[2].

Như Long Thọ nói trong Căn Bản Trung Quán Luận Gọi là "Tuệ Trí":

Người làm tùy thuộc trên một việc làm
Và một việc làm tồn tại tùy thuộc trên người làm
Ngoại trừ duyên khởi, chúng ta không thấy
Một nguyên nhân cho sự thiết lập của chúng.

Tác nhân và hành động tùy thuộc trên nhau.  Một hành động được đặt trong sự tùy thuộc một tác nhân, và một tác nhân được đặt trong sự lệ thuộc trên một hành động.  Một hành động sinh khởi trong sự tùy thuộc trên một tác nhân, và một tác nhân sinh khởi trong sự lệ thuộc trên một hành động.  Tuy thế, chúng không liên hệ trong cùng cách như nguyên nhân và hệ quả , vì một thứ được sản sinh trước một thứ khác.

Trong tổng quát, thế là thế nào, mọi thứ là tương đối?  Nó là như thế nào mà một nguyên nhântương đối với hệ quả của nó?  Đấy là bởi vì nó không được thiết lập trong nó và tự chính nó.  Nếu đấy là trường hợp, một nguyên nhân không cần phải lệ thuộc trên hệ quả của nó.  Nhưng mà không có một nguyên nhân độc lập, đấy là điều mà tại sao chúng ta không tìm thấy bất cứ điều gì trong nó và tự chính nó khi chúng ta thẩm tra một nguyên nhân theo cách phân tích, mặc dù hiện tướng của nó đến tâm thức hàng ngày của chúng ta rằng mỗi thứ có sự tồn tại độc lập của chính nó.  Bởi vì mọi thứ ở dưới sự ảnh hưởng của điều gì đó khác hơn là chính nó, sự định rõ điều gì đó như một nguyên nhân nhất thiết tùy thuộc trên sự quan tâm về hệ quả của nó.  Đây là lộ trình mà qua đó chúng ta đi đến nhận ra rằng sự thấu hiểu vi tế hơn này về duyên khởi như duyên mệnh danh đúng đắn.

Mới đây, trong khi ở Nam Ấn sau khi thực hiện một chuyến hành hương đến Núi Shri Parvata, nơi Long Thọ đã sống gần lúc cuối đời của ngài.  Tôi đã ban một lễ quán đảnh cho một đám đông thính chúng trong một truyền thống của Đạo Phật gọi là Thời Luân Mật Pháp (Kalachakra).  Trong lễ quán đảnh, tôi đã trao truyền một sự giải thích trong Tán Dương Duyên Khởi của Tông Khách Ba trong sự kết hợp với giáo huấn Căn Bản Trung Quán Luận của Long Thọ Gọi là "Tuệ Trí".  Tôi đã đi đến một điểm, nơi Tông Khách Ba nói:

Khi Đức Phật nói, "Bất cứ điều gì lệ thuộc trên điều kiện (duyên)
là trống rỗng chính sự tồn tại cố hữu của nó (vô tự tính)"
Điều gì tuyệt vời
hơn sự chỉ bảo diệu kỳ này!

Tôi đã nghĩ, "Điều này thật là vậy!"  Những gì tôi đã nghĩ là điều này: Quả thật, có thể có những động vật nào đó kẻ biết duyên khởi của nguyên nhânđiều kiện, nhưng đối với con người, duyên khởi của nguyên nhânđiều kiện là không thể phủ nhận.  Nhưng khi chúng ta nghĩ sâu hơn, duyên khởi của nguyên nhânđiều kiện hình thành bởi duyên mệnh danh, là điều tự nó biểu hiện rằng nguyên nhânđiều kiện không có bản chất của nó; nếu chúng thật có bản chất của nó, chúng sẽ không phải là duyên mệnh danh.  Như môn nhân của Long ThọPhật Hộ đã nói trong luận giải chương thứ hai mươi Căn Bản Trung Quán Luận của Long Thọ Gọi "Tuệ Trí":

Nếu điều gì đó tồn tại bằng phương cách tự thể của nó, thì điều gì sẽ cần thiết cho việc thừa nhận một cách phụ thuộc?

Thật vậy, nếu một vật hiện hữu trong tự nó, đấy là một mình nó sẽ đầy đủ.  Chúng ta có thể chỉ nói, "Nó là điều này," không cần liên hệ nó đến bất cứ điều gì khác.  Bởi vì nó được thiết lập trong nó và tự nó, không có lựa chọn nào khác ngoài việc đặt nó trong mối liên hệ đến một điều gì khác.  Tôi vẫn cứ thấy tư tưởng này lợi ích.

Cùng cách ấy, Tông Khách Ba đã nói trong 'Ba Phương Diện Chính Yếu của con đường Giác Ngộ[3]' :

Với hai sự thân chứng về duyên khởitính không hiện hữu đồng thời chứ không luân phiên
Kiến thức rõ ràng phá hủy hoàn toàn kiểu mẫu lãnh hội tồn tại cố hữu (có tự tính)
Chỉ trên việc thấy duyên khởi như không thể tranh cải
Tại điểm ấy sự phân tích quan điểm của thực tạihoàn toàn.

Quán chiếu trên duyên ngăn cách[4] tại trung tâm của duyên khởi của nguyên nhânhiệu quả củng cố sự thấu hiểu rằng các hiện tượng chỉ đơn thuầndanh tự, chỉ đơn thuần bị quy cho [là như thế], và không gì hơn thế.  Khi chúng ta thấu hiểu rằng chỉ 'sự quy cho' làm xói mòn nhận thức về sự tồn tại của hiện tượng trong chúng và tự chúng (sự tồn tại độc lập), nhiệm vụ của chúng ta trong việc thông suốt quan điểm thực tại của Đạo Phậthoàn toàn.  Tôi có hy vọng là tôi đang giải quyết vấn đề này.

Nếu chúng ta thấu hiểu rằng, bất chấp điều gì xuất hiện, cho dù cảm giác của chúng ta hay tâm thức suy nghĩ, những đối tượng đó được thiết lập trong sự tùy thuộc trên sự suy tư, chúng ta sẽ chiến thắng ý tưởng rằng các hiện tượng tồn tại trong tự thể của chúng.  Chúng ta sẽ thấu hiểu rằng các hiện tượng được xây dựng từ phía của chính chúng là không thậtChúng ta sẽ thực chứng tính không, sự vắng bóng của tự tính (sự tồn tại cố hữu), là điều tồn tại vượt khỏi sự tăng nhanh những rắc rối sinh ra từ việc thấy các hiện tượng như tồn tại trong chính chúng và cung cấp sự đối trị cho việc giải trừ vọng tưởng.

Thiền Quán Phản Chiếu

1-  Gợi lại một lúc khi chúng ta đầy ắp với thù hận hay tham dục.
2- Có phải dường như rằng con người hay sự vật thù hận và tham dục là cực kỳ cụ thể, rất thật, có phải không?
3- Vì trường hợp này là vậy, không có cách nào chúng ta có thể tuyên bố rằng chúng ta đã thấy các hiện tượng như lệ thuộc trên tư tưởng.
4- Chúng ta thấy chúng như hiện hữu trong tự thể của chúng.
5- Hãy nhớ rằng chúng ta cần thường xuyên thiền quán về tính không để chạm trán với hiện tướng sai lầm của hiện tượng.

 

NHẬN THỨC NÀY HỔ TRỢ TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH SỰ TỒN TẠI CỐ HỮU NHƯ THẾ NÀO

Tất cả những hệ thống Phật Giáo thừa nhận rằng sự tồn tạikhông tồn tại được quyết định bởi nhận thức có căn cứ.   Từ quan điểm này, chủ thể và khách thể dường như có cùng năng lựcHệ thống cao nhất của Đạo Phật, gọi là Trung Quán Tông, và trong nó Trường Phái Hệ Quả, đưa điểm này ngay cả xa hơn, nói rằng, không phải là một ý thứcgiá trị tìm thấy mọi vật tồn tại trong tự thể của chúng, mà đúng hơn, những vật ấy tự chúng tùy thuộc trên việc xây dựng bởi tư tưởng nhận thức.  Không điều gì có thể tồn tại ngoài việc được thiết lập bởi nhận thức.  Mọi thứ được thấy lệ thuộc trên tâm thức - tâm thức là kẻ cầm quyền.

Đây là tại sao kinh điển Đạo Phật nói rằng cái "tôi" và những hiện tượng khác chỉ tồn tại qua năng lực của tư tưởng nhận thức.  Mặc dù cái "tôi" được thiết lập trong sự lệ thuộc trên tâm thứcthân thể; nhưng tâm và thân không phải là cái "tôi", cũng không phải cái "tôi" là tâm thứcthân thể.  Không có điều gì trong tâm thứcthân thể (trong sự lệ thuộc trên cái "tôi" được thiết lập) là cái "tôi".  Vì thế, cái "tôi" tùy thuộc trên tư tưởng nhận thức.  Nó và tất cả mọi hiện tượng khác chỉ được thành lập bởi tâm thức.  Khi chúng ta thông hiểu điều này, chúng ta tiếp nhận một ý tưởng nhỏ rằng con người không tồn tại trong và tự họ và chỉ được xây dựng một cách lệ thuộc.  Và khi chúng ta thấy rằng các hiện tượng thường không dường như ở dưới sự ảnh hưởng của nhận thức nhưng dường như tồn tại trong tự thế của chúng, chúng ta sẽ nghĩ, "Ah! Đây là những gì đang bị bác bỏ."

Thiền Quán Phản Chiếu

Quan tâm:

1- Cái "tôi"  được thiết lập trong sự lệ thuộc trên tâm thứcthân thể.
2- Tuy nhiên, tâm và thân không phải là cái "tôi", cũng không phải cái "tôi" là tâm và thân.
3- Do thế, cái "tôi" tùy thuộc trên tư tưởng nhận thức, thiết lập bởi tâm thức.
4- Sự thật là, cái "tôi" tùy thuộc trên tư tưởng hàm ý rằng cái "tôi" không tồn tại trong nó và tự nó.
5- Bây giờ hãy chú ý rằng chúng ta có một cảm nhận tốt hơn về những gì có ý nghĩa cho điều gì đó tồn tại trong và chính nó, chính là sự tồn tại cố hữu mà sự thực chứng về tính không xoáy vào chỗ bác bỏ.

***

Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

BÀI LIÊN HỆ

Đặt Nền Tảng Để Tuệ Giác Sinh Trưởng
Khám phá cội nguồn của vấn đề
Thấu Hiểu Sự ThậtCần Thiết
Cảm nhận tác động của mối liên hệ hổ tương
Đánh Giá Đúng Lý Duyên Khởi
Thấy mối liên hệ tương duyên của mọi hiện tượng
Đánh Giá Duyên KhởiTánh Không
Tập trung tâm thức chúng ta
Hướng tâm thức chúng ta cho thiền tập
Thiền tập trên chính mình trước nhất
Nhận Ra Rằng Mình Không Thể Tồn Tại Trong Và Tự Chính Mình
Quyết định những sự lựa chọn
Phân tích tính chất đồng nhất
Phân tích sự khác biệt
Đi Đến Một Kết Luận
Thử nghiệm sự thân chứng của chúng ta
Mở rộng tuệ giác này đến những gì chúng ta có 

Cân Bằng Tịch TĩnhTuệ Giác
Nhìn chính mình như một ảo ảnh
Quán Chiếu Mọi Vật Lệ Thuộc Trên Tư Tưởng Như Thế Nào

 

 



[1] dependent production: sự sinh khởi phụ thuộc

[2] dependen designation: danh định phụ thuộc

[3] Đã được Tuệ Uyển chuyển ngữ trong Thư Viện Hoa Sen

[4] dependent latticework - cách tử duyên - sự phụ thuộc khuôn khổ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2225)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2658)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2352)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2667)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2438)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2540)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2710)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2995)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2558)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4099)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3308)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2501)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3001)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2634)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2387)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2596)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2689)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2745)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2131)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2599)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2818)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2714)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant