Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Nghiệp Riêng

19 Tháng Hai 202118:13(Xem: 3883)
Nghiệp Riêng

NGHIỆP RIÊNG  

Thích Như Tú

nghiep chung nghiep rieng


Trong Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, Đức Thế Tôn đã dạy cho Long Vương ở tại cung điện Long Vương Ta Kiệt La rằng: “Vì tâm tưởng của tất cả chúng sinh khác nhau nên tạo nghiệp cũng khác nhau. Do đấy, cho nên có sự lưu chuyển trong các đường”.

Rồi cũng một lần khác Đức Thế Tôn ở tại nước Xá Vệ trong rừng Thắng Lâm, vườn ông Cấp Cô Độc, trả lời các câu hỏi của trưởng giả Anh Vũ Ma Nạp Đô Đề Tử về người cha thọ nghiệp đầu thai làm “chó trắng” giữ nhà.

Đoạn kinh như sau: “Bạch Cù Đàm, do nhân gì, do duyên gì, chúng sanh kia đều thọ thân người mà có người cao kẻ thấp, có người đẹp kẻ xấu. Vì sao vậy? Bạch Cù Đàm, tôi thấy có kẻ sống lâu, người chết yểu; có kẻ nhiều bệnh, người ít bệnh; lại thấy có kẻ thân hình đoan chánh, có người không đoan chánh; lại thấy có kẻ có oai đức, người không oai đức; lại thấy có kẻ sanh nhằm dòng dõi tôn quý, có người sanh nhằm dòng dõi ti tiện; lại thấy có kẻ giàu có, có người nghèo hèn; lại thấy có kẻ thiện trí, có người ác trí”.

Đức Thế Tôn trả lời: “Chúng sanh kia do nơi hành nghiệp của chính mình, nhân bởi nghiệp mà thọ báo, duyên vào nghiệp, y nơi nghiệp, tùy theo nơi nghiệp xứ có cao thấp mà chúng sanhtốt đẹp hay không tốt đẹp”. (Kinh 170. Anh Vũ. Trường A Hàm III. Tuệ Sỹ dịch và chú thích).

Qua nhiều bài kinh khác cũng được Đức Phật dạy về nghiệp báo nên "mỗi chúng sinh đều có nghiệp riêng". Vì vậy, nghiệp của mỗi chúng ta dường như không ai giống ai cả.

Nay nhờ khoa học phát triển, có đủ điều kiện để minh chứng cho lời nói ấy cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm về trước. Và nơi đây, xin mượn tạm công nghệ tiên tiến để dẫn chứng cho được rõ ràng hơn. Chúng ta cùng xem lại những nghiên cứu về dấu vân tay của mỗi con người sinh ra trên quả địa cầu này.

Trung Quốc Cổ Đại, các thương nhân đã từng sử dụng việc lăn ngón tay cái trong việc giao dịch hay vay mượn. Hoặc trong các phán quan cho người tội điểm chỉ ở lời khai. Nhưng có lẽ khi đó người ta còn chưa biết rằng dấu vân tay có thể nhận dạng một cá nhân. Chỉ đến cuối thế kỷ thứ 16 dấu vân tay mới được các học thuật khoa học Châu Âu nỗ lực đưa vào nghiên cứu. Kéo dài đến giữa thế kỷ thứ 17 những kết luận hợp lý mới được thiết lập.

Vào năm 1686 giáo sư giải phẫu học người Ý tại Đại Học Bologna là Marcello Malpighi đã xác định được các đường gờ, đường xoắn ốc và đường vòng trong dấu vân tay khi để lại trên bề mặt. Một thế kỷ sau đó, vào năm 1788, nhà giải phẫu học người Đức Johann Christoph Andreas Mayer là người Châu Âu đầu tiên công nhận rằng dấu vân tay của mỗi cá nhân khác nhau. Đến năm 1880, Tiến Sĩ Henry Faulds một lần nữa chứng minh, dựa trên các nghiên cứu của ông: “dấu vân tay của mỗi người là duy nhất”. Mặc dù những thành viên trong gia đình có cùng hệ thống Gen di truyền và môi trường phát triển trong bụng mẹ nhưng cũng ở vị trí khác nhau. Đó chính là vân tay của mỗi người duy nhất và không ai giống ai cả. Đường nét vân tay sẽ không thay đổi trong suốt cuộc đời. Hiện nay để sử dụng công nghệ bảo mật an toàn người ta còn có thể dùng máy quét mắt cho dịch vụ này.

Năm 1882, cảnh sát Pháp và Anh quốc đã sử dụng biện pháp này đầu tiên lăn ngón tay của người dân trên các hồ sơ căn cước. Thực tế cho thấy là không có ai trên quả địa cầu này, từ trong quá khứ, hiện tại và tương lai có dấu vân tay trùng hợp với bất kỳ ai. Kể cả các cặp song sinh.

Trên bình diện đó rõ ràng có sự khác nhau và như thế mới dễ dàng phân biệt, giúp cho các cơ quan quản lý tiềm năng con người tìm ra dấu vết của những người có hành vi phạm tội trong xã hội ngày nay.

Xét về tình trạng tâm lý cũng như hoàn cảnh sinh hoạt vật chất, mỗi chúng ta cũng có ít nhiều khác nhau tùy theo quả báo hay phước báo của mỗi người. Nhưng nhìn với góc độ chung, chúng ta cũng có thể thấy rõ nhiều điểm tương phản nhau. Như người nghèo khổ, thiếu thốn vật chất thì khổ đã đành nhưng ngược lại người giàu sang, quyền quývật chất dư dả mà lại khổ tâm, trong lòng lo lắng bất an đủ điều. Đây có phải là nghiệp báo không?

Trong xã hội phát triển hiện nay, cũng có nhiều người tuổi trẻ mê mẫn trong công ăn việc làm, đến lúc gần tuổi nghỉ hưu lại phát sinh bệnh tật. Thậm chí chưa nhận được lương hưu để tận hưởng tuổi già thì đã nhắm mắt xuôi tay. Tâm linh cũng bị bỏ quên. Lúc cận tử thì tâm thần bấn loạn, chẳng biết víu vào đâu. Thế là chỉ đành theo nghiệp lực dẫn dắt muôn nơi trong mê mờ tăm tối “U minh nẻo trước xa xôi dặm về”. Lạc loài trong kiếp sống tha hương. Vui hay buồn, khổ hay hạnh phúc dường như đan xen nhau trong tấm lưới vô hình của cuộc đời.

Tôi có một người đệ tử tại gia, cô ấy đã kết hôn với một người chồng thuộc công dân Thụy Sĩ gốc hơn 25 năm qua. Vợ chồng có được hai người con trai. Nay đã trưởng thành, học xong các trường Đại Học và có việc làm ổn định, chưa kết hôn. Nhưng rất tiếc các con của cô không nói được tiếng Việt. Còn cô ở lúc sinh thời chỉ biết chăm lo cho gia đình nhỏ của mình, không tiếp xúc với cộng đồng Việt Nam hay các hội đoàn người Á Châu. Trong gia đình nhỏ đó, cô cũng không thường nói tiếng Việt cho các con làm quen. Hơn nữa, cô chỉ nghĩ đơn giản là cô cần phải thực tập tiếng Đức cho thành thạo mới mong xin được việc làm. Nên các con của cô dường như không biết gì về phong tục tập quán và văn hóa Việt Nam. Cô cũng không có niềm tin vào tôn giáo nào cả. Chỉ sống theo đạo Ông Bà, đặt một bát nhang trên tủ cao rồi đến ngày nào nhớ thì lạy, thắp nhang nghi ngút, không hình không tượng.

Năm 2016, cô phát hiện mình đã bị bệnh Ung Thư. Lúc bấy giờ, chồng của cô cũng trở nên lạnh nhạt. Người Thụy Sĩ mà lại bị ảnh hưởng rượu chè bê tha. Đến lúc gần nghỉ hưu, anh ta mắc chứng bệnh mất trí nhớ. Hai người con trai đến tuổi trưởng thành đã ra ngoài sống riêng. Căn nhà vắng lạnh cô đơn. Cô chợt nghĩ đến gia đình và những người thân yêu bên cạnh đã khiến cô trở nên trầm cảm. Trong tình trạng này, bệnh lại thêm bệnh. Tinh thần bất an, lối sống mệt mỏi. Mất phương hướng trong cuộc đời này. Cô như người mất hồn.

Trong lúc nguy nan, tình cờ dạo bước bên bờ hồ Luzern vào một buổi chiều thu, cô gặp được một người Việt Nam chuyện trò qua lại mới biết ở Luzern có một ngôi chùa Việt và cô hỏi thăm tìm về lạy Phật. Từ đó cô thường xuyên đi chùa mỗi khi có lễ, thành tâm dâng hoa hương cúng Phật, tìm hiểu Phật pháp. Không bao lâu, cô đã phát tâm quy y Tam Bảo, phát nguyện ăn chay và rất tinh tấn sám hối, đọc kinh, niệm Phật, nghe thuyết pháp mỗi ngày qua các băng giảng.

Từ khi biết đạo Phật, cô có lối sống nhẹ nhàng hơn. An nhiêntự tại. Nhờ tinh thần thoải mái, cô sống trong niềm tịnh tín hỉ lạc, chân thành với ba ngôi Tam Bảo, xả bỏ những điều ác xưa nay đã tạo như nghiệp sát sanh… Có lần cô kể chuyện như một lời thành tâm sám hối, “người chồng đi câu cá về và bảo cô phải đập đầu cá trong lúc nó còn vùng vẫy trên mặt đất”. Tuy cô không muốn nhưng vì chồng con nên cô đã làm như thế. Lúc đang kể lại những chuyện quá khứ, bỗng dưng nước mắt của cô ràn rụa như chợt nhận ra sự tội lỗi của mình đã tạo. Cô thành tâm sám hốitinh tấn hành trì ngũ giới như những nguyên tắc đạo đức của Phật giáo được cô áp dụng vào đời. Nhất là giới không sát sanh.

Từ đó, cô cố gắng hóa giải, không cho bất kỳ ác niệm nào khởi lên làm khổ mình, khổ người. Cô thực tập sống với tâm hồn rộng mở bao dung, sẵn sàng chia sẻ yêu thươngtha thứ. Dường như cô đã tìm ra được điểm tựa tinh thần nên nhanh chóng thay đổi lối sống trước đây, chuyên tâm trong niệm tỉnh thức với thiện nghiệp hiện tại. Hiểu rõ sự vô thường. Và sống thanh thản, biết đối diện với sự thật đang đến. Qua đó, bệnh tình của cô đã sống khỏe và kéo dài thêm được vài năm. Tưởng chừng như cô đã chiến thắng được căn bệnh nan y này. Nhưng nghiệp lực hiện tại đã bám lấy cô cho đến giây phút cuối cùng. Tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng với tâm hồn thanh thảntự tại đã giúp cô vượt qua những ngày tháng dày vò, thân tâm đau khổ như trong địa ngục hỏa thiêu. Biết được căn bệnh Ung Thư vào thời kỳ giai đoạn cuối nên cô đã quyết định về Việt Nam luôn để sống gần gũi gia đình cha mẹ ruột. Và rồi, cô cũng đã trút hơi thở cuối cùng tại Việt Nam. Cô ra đi một mình, một bóng đơn côi. Chồng và các con của cô không có mặt để tiễn đưa cô. Thật sự cô đã để lại trần gian những đứa con trai ngơ ngác không biết nói tiếng “mẹ đẻ” và người chồng tội nghiệp mất trí của cô ở Thụy Sĩ. Vô thường biến dịch. Thời gian dần trôi qua rồi họ cũng sẽ quên hình bóng của cô đã từng sống với họ trong suốt 25 năm qua. Cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Nhắc đến cô ấy, dường như ít người biết. Chỉ một vài Phật tử trong chùa thường tiếp xúc với cô. May ra còn nhớ đến tên cô và thầm cầu nguyện cho hương linh của cô sớm được vãng sanh về miền cực lạc. Chúng tôi mượn câu chuyện thật ở đời này để hôm nay xin được chia sẻ cùng quý Phật tử.

Ở Thụy Sĩ, kiến trúc quy hoạch cở sở hạ tầng các bệnh viện đều được xây gần với nghĩa trang, nhà quàng tang lễ và lò hỏa thiêu. Có lẽ đây cũng là phương tiện để dễ dàng lo cho hậu sự khi con người đến lúc mãn phần một kiếp người chăng?

Vào tháng 6 năm 2020, có dịp tôi nằm viện, nhìn những giọt nước chuyền chậm chạp đều đặn chảy vào ven như đang tiếp sức cho một cơ thể yếu ớt. Nếu còn cứu được thì cơ thể đó sẽ lại phải đối diện với bao điều đối đãi trong cuộc đời này.

Ai đã từng hành trì Phật phápgiác liễu được vô thường thì khi ở vào trạng thái như này sẽ dễ dàng buông bỏ tất cả. Tâm không dường như trống không. Của cải vật chất hay tình người thương ghét cũng không còn giá trị nữa. Lúc này càng thẩm thấu bản chất của cuộc sống. “Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã”. Chỉ có lời niệm Phật nhắc nhở định tâm và giọt nước biển mong manh đang từ từ rót vào trong sự tĩnh lặng và an nhiên. Từng giọt từng giọt nối tiếp nhau tựa như dòng chảy của thời gian mang theo bao nghiệp lực nương theo một kiếp người. Càng nhận ra tánh vô thường của các pháp hữu vi. Có cái gì là trường cửu? Một giọt nước nhỏ xuống ngay khi sanh liền diệt, giọt sau tiếp nối cũng không hằng nguyên thể. Đâu phải đợi khi lìa đời này con người mới thật sự chết. Sự sống và con người muôn thuở vẫn luôn chịu sự vô thường chi phối trong từng sát-na, già và chết đi từng ngày, từng giờ, từng phút… Thành, Trụ, Hoại, Không là một định luật tự nhiên. Chúng ta hãy quán tưởng một tiểu vũ trụ thu nhỏ như thân ta vậy!

Trong bài thơ “Giọt Vô Thường” Mặc Nhiên đã tâm sự:
Tạm gác lại những chuyện đạo vui buồn
Không nghĩ ngợi ngày sau hay dĩ vãng
Cứ nằm đây yên tĩnh chẳng lo toan
Nhìn nước biển nối nhau vào cơ thể
Chậm chạp, Nhẹ đều,
Buông rơi tất cả.
Đôi mắt khép, thay lời chào thanh thản
Một kiếp người chớp nhoáng bỗng tan nhanh. ….
Ngỡ như…
Đang giạt vào quên lãng!
Giật mình, tĩnh giấc trên giường bệnh viện
Cô Y tá vào thay bịch nước truyền
Thầm cảm nhận nhiệm mầu trong giây phút
Mỉm nụ cười theo nhịp sống hôm nay
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta có thêm ngày nữa để yêu thương”.

Nghiệp lực sẽ đưa ta vào vòng sanh tử. Cho dù trở lại đời này có được sanh vào một gia đình giàu có, không phải chịu sự nghèo đói. Chúng ta cũng không thể thoát khỏi một sự thậtĐức Phật đã từng chỉ dạy cho chúng ta thấy. Đó là KHỔ.

Cho dù gia tài có kết xù bao nhiêu, tiền tài có nhiều bao nhiêu cũng không thể mua được sức khỏe, sự an lạc và sự bình yên trong tâm hồn. Thong dong và tự tại! Chỉ có câu niệm Phật và sự tu tập hành trì Phật pháp, mang đạo vào đời mới mong giúp ta đoạn trừ những nỗi khổ niềm đau trong cuộc đời này.

Khi nhận biết được cuộc đời là khổ và luân hồi, bồng bềnh lên xuống trong ba cõi sáu đường như dòng tuần hoàn xoay vòng trong cơ thể của con người. Từ trong một trái tim sinh học nhỏ bé, dòng máu đỏ tuần hoàn đi khắp cơ thể rồi trở về lại tim./.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 89)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 105)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 129)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 146)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 147)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 149)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 258)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 202)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 272)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 223)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 226)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 202)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 310)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 255)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 327)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 316)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 435)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 309)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 353)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 463)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 424)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 351)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 622)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 345)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 419)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 406)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 422)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 436)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 425)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 361)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 477)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 815)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 808)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 670)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 975)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 500)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 438)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 543)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 561)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 539)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 534)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 712)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 603)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 758)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 732)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 702)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 696)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 660)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 734)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 709)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant