Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Đọc Thơ Của Thiền Sư Shotetsu

21 Tháng Ba 202119:17(Xem: 3618)
Đọc Thơ Của Thiền Sư Shotetsu

Đọc Thơ Của Thiền Sư Shotetsu


Nguyên Giác

3

 

Thiền sư Seigan Shōtetsu (1381-1459) là một trong vài người làm thơ nhiều nhất trong thi giới Nhật Bản. Chính xác, chúng ta không biết nhà sư đã sáng tác bao nhiêu bài thơ. Nhưng nhà sư kể lại trong một lá thư rằng vào tháng 4 của năm 1432, ngôi lều của nhà sư bốc cháy trong đêm, thiêu rụi mọi thứ trong lều và toàn bộ những bài thơ nhà sư đã sáng tác từ năm 20 tuổi, tất cả là 27,000 bài thơ trong 30 tập. Lúc đó Thiền sư 51 tuổi. Bây giờ, bộ sưu tập thơ Shōkonshū của Shotetsu còn khoảng 20,000 bài thơ.

Thơ của Shotetsu không làm theo thể haiku như đời sau. Thể thơ haiku hình thành vào thế ký thứ 17, dưới chiếc dù ảnh hưởng của các nhà thơ Matsuo Bashō (1644–1694) và Uejima Onitsura (1661–1738), định hình từ thể thơ hokku, chuyển từ thể thơ haikai hay renku. Thơ của nhà sư Seigan Shōtetsu (tên ngài có thể phiên âm là: Thanh Nham Chính Triệt) sáng tác vài thế kỷ trước đó, thường cũng là ngắn, nhưng không chính xác ở khổ 3 dòng và 17 âm như haiku. Trong ý thơ của thi sĩ Shotetsu, chúng ta đọc thấy ý đạo là hiển lộ ưu tiên. Thường không có đề cho riêng từng bài thơ, chỉ có nhan đề cho nhóm các bài thơ có nội dung gần nhau.

Như bài sau, trong nhóm bài nhan đề “Chân không là tự ngã”:

Khi tia nắng mùa thu
với mỗi ngày trôi qua
lụi tàn rõ hơn trong đời
buổi sáng rực rỡ hoa.

Bài thơ sau thuộc nhóm nhan đề “Than khóc”:

Hãy vội vã, người ơi
bất kể tông phái
nào bạn chọn
để tu học,
trong tuổi già
tim bạn sẽ kiệt lực
làm mọi nỗ lực gian nan.

Hay là bài thơ nhan đề “Nhìn lên kìa”.

Nhìn kìa
ai đó nói
chỉ tay vào
bầu trời thênh thang
với một ngón tay ---
nhưng không ai
bận tâm để nghe
và nhìn
vào mặt trăng.

.

Shotetsu sinh năm 1381 tại tỉnh Bitchu, Nhật Bản, và từ trần năm 1459 tại Kyoto. Theo nhà biên khảo Earl Miner, trong tác phẩm “An Introduction to Japanese Court Poetry” do Stanford University Press ấn hành 1968, viết nơi trang 139: “Shotetsu được một số học giả Nhật hiện nay nghĩ là nhà thơ xuất sắc nhất trong thế kỷ; khoảng 20,000 bài thơ của ông trong tuyển tập Shōkonshū, cho thấy ông cũng là một trong các nhà thơ sáng tác nhiều nhất trong truyền thống thơ cung đình.”

Shotetsu sinh trong một gia đình võ sĩ samurai bậc trung ở tỉnh Bitchū (bây giờ là Okayama), khoảng 10 năm sau theo gia đình dọn về Kyoto. Năm 15 tuổi, Shotetsu vào một ngôi chùa ở Nara và ở đây 5 năm để học, kể cả kinh điển Phật Giáo. Sau khi thân phụ từ trần năm 1400, Shotetsu trở về Kyoto, tìm một người bạn vong niên có tên là Imagawa Ryōshun (sinh: 1325/1326?; chết: 1417/1420) và yêu cầu bạn dạy cho “Đạo của Thơ” ("Way of Poetry").

Lớn tuổi hơn Shotetsu cả nửa thế kỷ, trước đó từng gặp nhiều lần, Ryoshun là võ quan về hưu, là cư sĩ Phật Giáo và là một nhà thơ nổi tiếng. Shotetsu về sau kể lại, rằng khi được 14 tuổi thì được Ryoshun dạy về thi pháp và cấu trúc thơ, được giới thiệu để tham dự các buổi họp thơ tại nhà một quan chức dân sự.

Shotetsu học về thể loại thơ cung đình với Ryoshun, và các lĩnh vực văn chương khác, kể cả truyền thống văn học Thần Đạo. Từ đó Shotetsu làm quen với nhiều nhà thơ ảnh hưởng trong thời kỳ đó. Năm 1406, Shotetsu rời bậc thầy thi ca để vào tu trong một thiền viện dòng Lâm Tế ở Kyoto có tên là Tu viện Tofuku-ji; nơi này, cũng là nơi Ryoshun từng vào tu học nhiều thập niên trước. Sau khi có tin vị thầy thơ Ryoshun từ trần (có thể là 1417 hay 1420), Shotetsu làm một số chuyến đi hành hương xa khỏi Kyoto để thăm những nơi nổi tiếng trong thơ cổ Nhật Bản. Khi về lại Kyoto, nhà sư Shotetsu toàn tâm toàn lực bước vào không gian thơ Kyoto, biến sự nghiệp đời ông thành một ngọn núi thi ca.

Năm 1424, Shotetsu rời tất cả tự viện, về dựng một ngôi lều ở ngoại ô Kyoto, sống như một nhà thơ chuyên nghiệp, được vây quanh bởi nhiều người bảo trợmôn đệ, và thường được mời dự các buổi đọc thơ trong các gia đình quý tộc – có lúc được mời vào đọc thơ trong cung điện Tướng quân Ashikaga.

Tuy nhiên, cõi này vô thường. Chuyện xảy ra vào giữa ngày thứ nhì và thứ ba trong tháng thứ tư của năm 1432, Shotetsu kể lại: “Vào đêm thứ nhì, tôi ở lại dinh của Trưởng Quan Nội Chính, và thức dậy để nghe báo tin rằng chiếc lều của tôi, ngôi lều Imakumano, đã bốc cháy trong đêm. Không gì cứu vãn được. Toàn bộ các bài thơ tôi làm từ tuổi hai mươi, toàn bộ 27,000 bài thơ, lưu giữ trong hơn 30 thi tập, trở thành khói bụi, không một bài thơ nào còn. Cùng với tro bụi đó, là tất cả những cuốn sách, và cả những văn liệu tôi đã chép tay làm phó bản.”

Lúc đó Shotetsu 51 tuổi. Tướng quân Ashikaga Yoshimochi từ trần năm 1428, người em trai là Ashikaga Yoshinori (1394-1441) lên thế ngôi. Từ từ tình cảm nhạt dần. Các sách về cuộc đời Shotetsu kể rằng Yoshinori không có thiện cảm với nhà sư Shotetsu, và có một lúc ra lệnh đưa Shotetsu quản chế tại gia. Về tài chánh, tiền Shotetsu thừa kế từ gia tộc cũng bị tịch thu. Về văn học, tuyển tập thơ cung đình lúc đó được kết tậpbiên tập bởi Asukai loại Shotetsu ra ngoài – Tuyển tập có tên Shinshokukokin Wakashū ("New Collection of Ancient and Modern Times Continued" – Tân Tuyển Thơ Cổ và Hiện Đại) có nghĩa là xóa tên nhà thơ Shotetsu ra khỏi thi ca thời trung cổ phong kiến này.

Từ đó, Shotetsu sống ẩn dật, ít tiếp xúc, sáng tác thơ cũng ít hơn. Năm 1441, sau khi Tướng quân Yoshinori bị một trong các tướng thân cận ám sát, nhà sư Shotetsu được mởi trở lại không gian văn học của các gia tộc quan chức mới. Shotetsu từng được giữ chức dạy kèm cho tân Tướng quân Ashikaga Yoshimasa (1435-1490), và được cho hưởng lại tiền thừa kế tập truyền từ người cha quá cố. Nhưng sức khỏe nhà sư Shotetsu suy yếu dần. Sau ba năm bệnh dai dẳng, Shotetsu từ trần năm 1459, hưởng thọ 79 tuổi. Học giả Steven D. Carter từng viết rằng, nếu toàn bộ thơ của Shotetsu còn ghi lại được, có lẽ hơn 31,000 bài thơ. Con số chính xác không thể nào biết được, nhưng hiển nhiên thơ Shotetsu đã đặt nền móng cho đời sau phát triển thành thể thơ haiku. Sau đây sẽ dịch một số bài thơ của Shotetsu.

Bài thơ sau gợi ý về Kinh Phật, khi nói về một con trâu, xuất hiện trong bóng đêm, từ từ bước ra, nhà thơ nhìn thấy trâu nhưng không thấy có “ai” – nói theo Mười Bước Chăn Trâu của Thiền Tông, trâu là hiển tướng của tâm, nhưng chỉ có cái được thấy là trâu (tâm) nhưng không hề có ai hay tự ngã nào thấy. Trong cái thấy của tâm này, trâu (tâm) “bước theo bước chân tôi” nhưng “không hề có ai” trước mắt. Đó là cái thấy của giải thoát, không phải Nam Tông hay Bắc Tông, không phải Thiền Tông hay Tịnh Độ, không phải Nhật, Việt, Hoa, Hàn… Đó là cái thấy “không ai” trước mắt. Bài thơ này được dịch giả Steven D. Carter xếp vào nhóm thơ yūgen ("huyền diệu và thâm sâu"):

Một gia súc, mùa xuân
Khoảng tối của đêm
một con trâu
bước ra trên cánh đồng
theo bước chân tôi
và dọc theo
đường lộ mờ sương
Tôi thấy
không một ai.

.
Một bài thơ khác của Shotetsu gợi nhớ tới Đức Phật dạy trong Kinh Kim Cang, rằng hãy giữ tâm không chỗ trụ, rằng đừng luu luyến gì quá khứ, đừng mơ tưởng gì tương lai và chớ nắm giữ gì nơi hiện tại. Bài thơ nghe như lời khuyên vì nhan đề là Tình yêu đã quên. Điều nên ghi là, trong tiểu sử của Shotetsu không thấy hình bóng phụ nữ nào. Phải chăng “tình yêu” nơi đây là “tình yêu thi ca” hay tất cả những cảm thọ trong cõi này?

Tình yêu đã quên
Tôi đã quên
trong khi cứ mãi quên
để tự nhắc mình
rằng những ai đã nguyện sẽ quên
là những người không thể quên.

Nhà sư nơi đây tự nhận sống theo hạnh không nhà, hạnh vô gia cư, chấp nhận đón nhận tất cả những gian nan của các trận gió đời. Tuy nhiên, bài thơ sau được đặt nhan đề là “Seeking Love” (Tìm yêu thương). Phải chăng nên dịch rằng người vô gia cư này đang tìm “ngôi nhà của yêu thương, của từ bi”? Phải chăng bài này làm trong thời kỳ sống hạnh du tăng, hành hương? Bản dịch như sau.

Tìm yêu thương
Với những gian nan
thổi tới tôi
những trận gió núi
từ sâu thẳm
tận trong tim
của người không
tìm nơi cư trú nào.

Trong khi đó, hình ảnh trong bài thơ sau lại rất quen thuộc với nhà Thiền. Mặt trăng tượng trưng cho chân lý, được ngón tay chỉ lên để nhìn. Trong bầu trời rỗng không. Nhưng không ai bận tâm. Bài thơ như sau.

“Hãy nhìn lên”
có người nói thế
chỉ ngón tay vào
bầu trời rỗng không
nhưng không ai bận tâm
chịu nhìn vào mặt trăng.

Kinh Phật nói rằng có nhiều vị cổ Phật. Bài thơ sau đây của Shotetsu có nhan đề “Phật đạo” nói rằng ngay cả các ngọn núi, tất cả đều tự thân mang hình tướng vị Phật đầu tiên và Phật pháp vẫn không ngừng tuyên thuyết trên các ngọn gió bão. Bài thơ như sau.

Phật đạo
ngay cả những ngọn núi
tất cả đều tự thân
hình tướng
của
vị Phật đầu tiên.
Và không ngừng nghỉ
giáo pháp
được tuyên thuyết
từ các trận gió bão.

Một bài thơ nói về tiếng chim cu gáy. Có thể là nhà sư Shotetsu muốn nhắc tới luật vô thường, vì nói rằng tiếng gáy qua đi, không tìm lại được. Cũng có thể nhà sư muốn nhắc hãy tỉnh thức, lắng nghe cái bên kia chữ viết, bên kia lời nói. Bài thơ như sau.

Tiếng kêu từ một chim cu
như dường nói
sự thật để thấy rằng
càng nhiều lời
càng kém giá trị
chim cu không kêu lại nữa.

Một bài thơ nhan đề “Hồi tưởng” (Reminiscing) cũng nhắc lời Kinh Phật rằng tất cả những hình ảnh của quá khứ chẳng nên nắm giữ, hãy để cho gió từ rặng thông thổi bay cho hết những giấc mơ chưa quên. Bài thơ như sau.

Hồi tưởng
Tất cả những hình ảnh này
từ một thế giới
của những xa xưa
có lợi gì đâu
Gió rừng thông ơi
hãy tới thổi tan đi
những giấc mơ chưa quên.

Tương tự, một bài thơ nhà sư Shotetsu đọc trong buổi họp thơ tại nhà một quan chức cao cấp trong triều đình, được ghi là hội thơ ngày 24 tháng 8/1447. Bài thơ nói về gặp hay không gặp Đức Phật ngay nơi hiện tiền, không ở quá khứ hay tương lai.

Và những gì
hơn lúc này
tôi có từng bao giờ thở than:
rằng tôi phải sống
hiện tiền bây giờ
khi tôi có thể không gặp Phật --
không của quá khứ,
không của tương lai.

Người dân Nhật Bản thờ rất nhiều vị thần. Các ngôi đền Thần Đạo còn nhiều hơn các ngôi chùa Phật Giáo. Cả hai tôn giáo này đều đã quyện sâu vào văn hóa Nhật Bản. Tuy nhiên, Shotetsu có một bài thơ, nói rằng các vị thần chỉ là phóng ảnh từ chính chúng ta. Trong kinh luận Phật Giáo, thần có thể hiểu là cõi chư thiên. Trong Thiền Tông, với cái nhìn thấu suốt tự tánh của các pháp sẽ thấy chính là vô tự tánh, là rỗng rang Không Tánh; do vậy, các thiền sư mới nói “Phùng Phật sát Phật” (Hễ còn thấy Phật thì dẹp bỏ hình tướng Phật đó đi). Bài thơ sau, Shotetsu nói về Các Vị Thần.

Các vị thần
ngoài chúng ta
ra
không có
vị thần nào khác.
Với chính các vị thần
hãy biết rằng
chính trong tâm người
các vị thần mới được tìm thấy.

Bài thơ sau nói về những hồi chuông chùa bay trên sông, tan dần và từ từ rơi trên tay áo nhà sư, trở thành thủ đô. Lúc đó Kyoto là thủ đô Nhật Bản trong hơn 1,000 năm (từ năm 794 tới 1868). Bài thơ nhan đề “Chuông Từ Bi” (“Love—Bell”) ghi lại cảm xúc của Shotetsu. Nhà thơ dùng chữ “rơi trên tay áo” (falling onto my sleeves) chứ không phải “bay vào trong tay áo”… Nghĩa là, lúc đó, tay áo phất phơ theo từng hồi chuông bay tới. Và các hồi chuông vô hình đó trở thành thủ đô.

Chuông từ bi
Tôi lắng nghe
các hồi chuông
bay trên sông Hatsu
tan dần
từng hồi chuông một
rơi trên tay áo của tôi
trở thành
thủ đô.

Một bài thơ của Shotetsu ghi về bản thân, khi lắng nghe tịch lặng của tâm, mặt trăng trí tuệ mới hiện lên. Nhưng khi quay lại nhìn, thì thấy mây hiện lên (vì còn vướng thấy có ai nhìn). Bài thơ này Shotetsu viết tại một ngôi nhà ở Yokawa vào ngày rằm tháng 4 năm 1442, trong khi đi bộ hành hương ở Núi Hiei, phía đông bắc Kyoto.

Từ nơi tịch lặng
nơi tự tâm tôi
hiện lên
mặt trăng mọc
và khi quay lại nhìn ---
mặt trăng
trong các chùm mây.

Một bài thơ nhan đề “Qua như một giấc mơ” (“Passing Like a Dream”) làm tại ngôi chùa Myoei-ji vào năm 1457, nhà sư Shotetsu viết rằng giấc mơ trong khi ngủ sẽ tan khi thức dậy, nhưng giấc mơ trong khi thức thì cứ buộc người hoài thôi.

Những gì nhìn thấy
trong giấc ngủ
sẽ biến mất
khi thức dậy,
nhưng giấc mơ
trong khi thức
giấc ngủ sẽ không
làm quên nổi.

Nhà thơ Shotetsu ví thân như cỗ xe, khi tuổi già tới, xe ngừng lại, như muốn sụp đổ, nhưng chặng đường  từ bi của sư vẫn không ngừng. Bài thơ viết như sau.

Cỗ xe xưa cũ rồi
càng xe gần như sụp ngã
dừng lại tạm nghỉ --
hao mòn từ du hành xa
trên chặng đường từ bi.

Trong tận cùng, chúng ta có thể suy đoán rằng nhà sư Shotetsu đã mượn thơ để hoằng pháp. Nếu không làm thơ, nhà sư không thể tiếp cận với giới thượng lưu. Những bài thơ ngắn phù hợp với những buổi họp thơ thời xưa cổ, khi giấy, mực và bút còn là hiếm hoi. Thơ ngắn dễ làm người nghe ghi nhớ, khi bước về nhà. Shotetsu là mảng lịch sử hy hữu của Nhật Bản – dù là nhìn như một nhà sư, hay một nhà thơ.

Nguyên Giác

.

PHOTO:

Hình 1:

1Nhà sư Seigan Shōtetsu, do Sakai Hōitsu (1761-1829) vẽ, mực trên giấy.

Hình 2:2

Seigan Shōtetsu, do Teikoku Jinmei Jiten vẽ, năm 1629.

Hình 3 và 4:
43

Tháp chuông chùa Nhật tại Kyoto, ảnh chụp năm 2019.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 63)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 98)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 126)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 145)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 146)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 146)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 244)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 201)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 271)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 222)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 226)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 202)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 310)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 254)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 326)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 315)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 423)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 308)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 353)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 462)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 424)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 351)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 621)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 343)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 419)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 406)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 422)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 435)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 424)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 359)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 476)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 814)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 803)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 669)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 974)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 500)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 436)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 543)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 560)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 539)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 534)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 710)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 603)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 757)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 732)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 702)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 696)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 660)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 734)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 709)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant