Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lục Tổ Huệ Năng, Ba Chặng Đường, Một Đời Sống

29 Tháng Ba 202121:41(Xem: 3742)
Lục Tổ Huệ Năng, Ba Chặng Đường, Một Đời Sống
Lục Tổ Huệ Năng
Ba Chặng Đường, Một Đời Sống

 

Một đời người có rất nhiều chặng đường trong đời sống. Chúng ta có nghe: "Thời gian còn nhỏ học chết bỏ. Lớn lên làm việc chết bỏ. Về già tu chết bỏ." Hay Khổng Tử lại nói: "Tam thập nhi lập. Tứ thập nhi bất hoặc. Ngũ thập nhi nhĩ thuận. Lục thập tri thiên mạng. Thất thập cổ lai hy." Cũng trong ý nghĩa của chặng đường ấy, nền văn học bình dân Việt Nam cũng nói: "Sông có khúc, người có lúc." Người có nhiều lúc lắm. Lúc còn nhỏ khóc nhòe. Lúc lớn lên lao đầu vào cuộc sống. Và lúc về già thì đau yếu, bệnh hoạn. Cứ như thế, đời người ai cũng vậy. Thăng, trầm, thành, bại có đủ. Hay khi lên voi, lúc xuống chó, dường như không thiếu một chặng đường nào. Dẫu biết vậy, nhưng có người trải qua bao chặng đường của đời sống, nhưng cuối đời rồi chẳng ra chi. Sanh tử vẫn hoàn sanh tử. Luân hồi nghiệp báo vẫn hoàn nghiệp báo, luân hồi, chẳng xa rời một tơ hào, gang tấc. Người xưa nói: "Phận nghèo trèo núi lặn non, tránh sao khỏi cực, cực cũng còn theo sau." Nếu người biết tu, biết học Phật pháp, biết chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện, biết bỏ dữ làm lành thì chắc hẳn được có đời sống an vui, hạnh phúc, còn bằng ngược lại thì đời mình sẽ nhiều lênh đênh, trôi dạt, bể dâu. Tất cả đều do mình quyết định cho đời mình để có được sự thăng hoa hướng thượng, hay bị rơi rụng, lăn lóc, gian truân.

Chúng ta bình tâm để thấy ba chặng đường một đời sống của Lục Tổ Huệ Năng:

Chặng đường thứ nhất: Làm người tiều phu, vào rừng đốn củi, gánh xuống chợ đổi gạo, kiếm tiền, để nuôi Mẹ già và tự thân. Cứ thế, ngày này qua ngày nọ, một đời sống thanh thản dần trôi trong vô thức. Vì không có sự suy tư, đắng đo, lý giải, chỉ có một lòng nuôi Mẹ già để đền ơn, trả hiếu trong bổn phận của người làm con. Không sợ nặng nhọc gánh củi xuống chợ. Không sợ gian khổ để nuôi Mẹ già ở túp lều tranh trong bìa rừng heo hút. Ngày thì vui với cây rìu đốn củi. Đêm thì vui bên cạnh Mẹ già, chăm sóc cơm nước.

Làm thân một lão tiều phu, sống đời núi rừng, lầm lũi trông thật hắt hiu, nhưng tâm hồn luôn trong sáng, như nhiên như lá hoa đồng, cỏ nội. Như rừng xanh núi cao đậm màu hương sắc cho một sức sống hạo nhiên mang tính thiên nhiên, tạo vật. Một lão tiều phu yêu rừng xanh nước thẳm. Tâm tư của lão như áng mây trời bềnh bồng theo gió mang đi khắp bốn phương trời, không vướng mắc, không trói buộc bất cứ nơi đâu. Đốn củi xong, gối đầu nơi gốc cây nghỉ ngơi, lấy lại sức khỏe, chiều gánh củi xuống chợ bán để có tiền mua gạo, rau tương về sống với Mẹ già. Ôi! Một đời sống trung trinh với cái Hiếu, cái Thảo của đứa con của Mẹ một đời thanh cao. Đây, bên cạnh ánh đèn dầu leo lét, Mẹ nằm ngủ an nhiên, hiện lên khuôn mặt răn reo nhưng nội hàm thánh thiện. Kia, bên góc túp lều, lão tiều phu, con của Mẹ đang chăm đọc Kinh Kim Cang, trải qua bao năm tháng như vậy, nhưng vẫn chưa hiểu nổi ý Kinh, còn nằn nèo, dò dẫm mong cầu liễu nghĩa, thấu đạt lời Phật dạy: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, là gì?" Xếp Kinh lại gối nơi đầu, ngủ trong dòng suối mát của lời Kinh nhiệm mầu.

Chặng đường thứ hai: Gà rừng vừa gáy sáng. Trời phương đông còn tỏ lờ mờ, Mẹ già dậy trước, đánh thức con gánh củi xuống chợ cho nhà ông cư sĩ tu Phật, mà ngày hôm qua hai bên đã giao hẹn. Lão tiều phu choàng tỉnh, nhìn Mẹ trong ánh mắt trong sáng, đầy vẻ an lạc, kính yêu. Đã 20 năm rồi, hai Mẹ con sống như thế. Con vào rừng đốn củi. Mẹ ở túp lều tranh, cơm nước cho con. Sớm chăm sóc vườn rau cải, ngò, tía tô, rau húng... chiều tụng Kinh, thầm nguyện "Nam Mô Phật" cho hai Mẹ con luôn sống có nhau, an lành giữa núi rừng trầm lặng. Đây, bát nước trà gừng còn bốc khói, nồi khoai mài núi mới hấp xong, lão tiều ăn buổi sáng, uống cạn bát trà nóng, rồi chào Mẹ, gánh củi xuống chợ. Trên con đường từ nhà gánh đôi củi nặng trên vai mà tâm luôn chiêm nghiệm lời Kinh Kim Cang khi hôm, "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm!!!" Như là đề khởi công án Thiền không vụt chạc, không xao lãng, như gà ấp trứng, như mèo rình chuột, một lòng phá vỡ công án để quách nhiên tỏ ngộ lời Kinh.

Lão tiều phu gánh củi đã đến trước nhà người cư sĩ tu Phật, nhưng không gánh củi vào, dường như ông ta còn chiêm nghiệm một điều gì đó. Thì ra, một âm thanh trầm bổng, lời nhặt tiếng khoan của người cư sĩ tu Phật đang tụng Kinh Kim Cang từ trong nhà đã rót trọn vào tâm tư của lão tiều phu bán củi đang đứng ngoài cửa. Tâm tư định tĩnh. Ý lòng vô sự, như ánh sáng ban mai soi tỏ trên những lá hoa, làm rạng rỡ, ngời lên màu xanh tía lục của ruộng vườn, núi đồi, non cao, biển thắm. Lời Kinh tụng Kim Cang đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" của người cư sĩ tu Phật đột phá một cách mãnh liệt, xô dạt bao thành trì vô minh, chấp ngã của tự tâm, làm rơi rụng bao não phiền, lậu hoặc... Một dòng suối mát chảy vào đến tận tâm cang, ý lòng bừng sáng, quách nhiên liễu ngộ lời Kinh. Hãy đem cái tâm của mình đặt vào chỗ không có chỗ đặt. Giờ đây, lại đặt gánh củi lên vai gánh vào cửa nhà người cư sĩ tu Phật kia, lão tiều phu đâu còn thấy gánh củi trên vai để gánh, và cũng chẳng thấy có người gánh củi để bán, kiếm tiền nuôi dưỡng Mẹ già sống trong túp lều giữa núi rừng kia. Bình đẳng nhất như, hữu tình vô tình, nhơn pháp câu không.

Chặng đường thứ ba: có người hàng xóm tốt bụng, biết được chí nguyện xuất trần của lão tiều phu, nên đã đem cho tiền bạc, cấp dưỡng Mẹ già, sớm hôm chăm sóc... Đã có người thay thế mình để phụng dưỡng Mẹ, nên đã yên lòng, người tiều phu đứa con hiếu thảo của Mẹ, khăn gói lên đường đâu đó đã xong, vào lạy Mẹ ra đi tìm Thầy học đạo. Biết được ở núi Nam Nhạc, Ngũ Tổ Hoàng Mai đang có một đồ chúng lớn đang tu học ở nơi đó.

Ngày đi, đêm nghỉ, dốc hết chí nguyện tu hành, cầu mong đem cái sở ngộ của mình mà phụng sự cho công đức hóa độ, tự tha viên mãn. Lão tiều phu, quê mùa, dân dã bước chân vào cửa Phật, dần về phía cốc của Ngũ Tổ Hoàng Mai, sụp lạy ba lạy, thấy vậy, Tổ hỏi: "Ông là ai? Từ đâu đến đây?" "Bạch Tổ, con là người xứ phương Nam, đến đây để cầu làm Phật." Tổ nói: "Người xứ phương Nam là làng mọi rợ, làm sao có tánh Phật mà cầu?" "Bạch Tổ, người thì có người ở phương Bắc, phương Nam, chứ Phật tánh đâu có Nam Bắc." Trước câu nói của người nhà quê dân dã kia, Ngũ Tổ biết đây là pháp khí nhà Thiền rồi.

Do vậy, Tổ bảo: "Hãy xuống nhà dưới mà giã gạo đi." Mừng quá, đã được Tổ cho ở lại đây thì làm gì cũng được, dù bắt mang đá, giã gạo, gánh nước, bửa củi gì gì cũng vui. Tấm lòng của người cầu đạo thì chẳng nề hà gì hết. "Sớm hiểu đạo, chiều chết cũng cam lòng" huống nữa là gánh nước, bửa củi, giã gạo thì đâu là gì! Nhưng có ai ngờ rằng trong thân tướng của gã nhà quê dân dã kia lại nội hàm bao nhiêu tánh giác, linh minh, đổng triệt của một bậc Thánh, Tổ Sư. Tánh giác ấy ẩn tàng trong thân năm uẩn, ẩn sâu trong tứ đại, giả hợp duyên sinh, như viên ngọc ma ni ngàn năm dưới lòng đại dương thăm thẳm. Một khi tánh giác đã bùng vở, đạo giải thoát đã chín mùi, giác ngộ bừng dậy, thì ở đâu cũng là Tổ, cũng là Thánh giả, xuất trần. Lục Tổ Huệ Năng, trong thân tướng là "người dân dã, hoang sơ", nhưng trong tự tánh lại là "bậc xuất trần vi thượng sĩ." Bậc Thánh trong hàng Thánh. Bậc Tổ Sư Thiền trong hàng Tổ Sư bậc trội. Chính  vì vậy, mà Tổ đã quán chiếu tự tánh của mình, của vạn sự vạn vật để lại bài học vô giá tuyệt đối trên tiến trình tu chứng bản lai diện mục của vạn pháp:

"Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh

Đâu ngờ tự tánh vốn không sinh diệt

Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ

Đâu ngờ tự tánh vốn không giao động

Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp."

Cho đến một ngày, đang mang đá giã gạo dưới nhà bếp, có người vào vỗ vai mà nói: "Này chú giã gạo có muốn đọc bài kệ của ngài Thần Tú, người làm giáo thọ đại chúng ở đây, theo lời chỉ dạy của Tổ mà làm bài kệ để trình cái sở ngộ của mình." Do vậy, ngài Thần Tú đã làm bài kệ dán trên vách nhà Tăng kia."

Tôi là người "vô học", không biết đọc chữ, xin đọc giúp cho nghe.

"Thân thị Bồ đề thọ

Tâm như minh cảnh đài

Thời thời cần phất thức

Vật sử nhạ trần ai."

Dịch: 

Thân như cây Bồ đề

Tâm như đài gương sáng

Siêng năng thường lau chùi

Chớ để dính bụi trần.

- Sao! Chú giã gạo kia, có hiểu không, có muốn làm kệ trình chỗ sở ngộ của mình không? Tôi thấy chú đến đây và đã giã gạo qua tám tháng dưới nhà bếp rồi.

- Tôi cũng muốn làm kệ, nhưng không biết viết, xin viết giùm cho.

- Được, tôi viết cho, nhưng khi được Tổ trao y bát, thì xin đừng quên tôi nghe. Chú giã gạo đọc kệ:

"Bồ đề bổn vô thọ

Minh cảnh diệc phi đài

Bổn lai vô nhất vật

Hà xứ nhạ trần ai."

Dịch:

Bồ đề chẳng phải cây

Gương sáng chẳng phải đài

Xưa nay không một vật

Lấy chi dính bụi trần.

Bài kệ được viết xong trên vách tường chùa phía Bắc, cả đại chúng hăm hở thi nhau mà đọc, người người đến xem, làm náo động nhà Thiền. Tiếng đồn đến tai Tổ, chống gậy ra xem bài kệ viết thế nào, sở ngộ của người làm kệ ra sao. Sau khi đọc qua Tổ biết sở ngộ của người trình kệ, mà nếu để lâu chắc sinh ra những điều không hay. Tổ liền bảo: "Hãy chùi bài kệ này đi, người chưa tu hành không thể hiểu tới." Bài kệ xóa đi quay về "Tánh Không." Im lìm ngàn đời bất động, không tăng, không giảm, chẳng thường, chẳng đoạn, như nhiên.

Cảnh vật nhà Thiền, chìm vào đêm trường tĩnh lặng, hai bóng thầy trò chập chờn dưới ánh trăng đêm. Nghe tiếng êm đềm đâu đây: "Để Thầy đưa con qua sông." Bạch Thầy: "Khi xưa con chưa "ngộ" thì nhờ Thầy "độ" cho, nhưng bây giờ con đã "ngộ" rồi thì con tự "độ" lấy.

Ba cảnh đời, một cuộc sống, có đủ phàm thánh trong nhau. Bài học của đời, kiếp tu của Đạo đáng giá ngàn vàng, ai ơi! Tánh - Tướng có dị, đồng, nhưng bổn lai không khác. Nguyện xin thừa sự mười phương chư Phậtliễu ngộ tự tâm, dù có trôi lăn trong biển trầm luân sinh tử, cũng không bao giờ quên Bồ đề tâm.

Chùa Phật Đà, ngày 26 tháng 3 năm 2021

Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1307)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1430)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1330)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1405)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1385)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1282)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1338)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1349)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2034)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1384)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1410)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1279)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1536)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1377)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1239)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1207)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1270)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1257)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1395)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1129)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1116)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1173)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1312)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1332)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1103)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1220)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1157)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1298)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1285)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1422)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1527)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1269)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1254)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1389)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1426)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1342)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1671)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1314)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1317)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1351)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1199)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1222)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1354)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1473)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1532)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1696)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1562)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1455)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1235)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant