Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Tu Sĩ Giản Dị

31 Tháng Ba 202119:17(Xem: 3495)
Một Tu Sĩ Giản Dị

MỘT TU SĨ GIẢN DỊ


Nguyên tác: A Simple Monk

Tuệ Uyển chuyển ngữ

Datlailatma

 

 

MỘT TU SĨ GIẢN DỊ

Tenzin Gyatso, người được những tín đồ và những người ngưỡng mộ ngài tôn xưng là Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma, tự gọi ngài là một thầy tu giản dị. nhưng ngài hơn thế ấy rất nhiều. Ngài là lãnh tụ tinh thầntôn giáo, nguyên thủ của chính quyền lưu vong Tây Tạng, một vị thầy, một nhà du hành quốc tế, một học giả nổi tiếng, tác giả của nhiều quyển sách, và là một diễn giảgiảng sư được săn đón. Năm 2007, trong một buổi lễ ở thủ đô Hoa Sinh Tân D.C., để trao tặng Huân Chương Vàng Quốc hội Hoa Kỳ[1], Chủ tịch Hạ Viện Nancy Pelosi đã nói: “Với hàng triệu người kính tin và ngưỡng mộ, ngài là một nguồn cội của tuệ trítừ bi. Đối với những người trẻ, ngài là một gương mẫu tích cực của vấn đề làm cho thế giới là một nơi tốt đẹp hơn như thế nào.”

Đồng bào Tây Tạng xem ngài như một biểu tượng của tự do tôn giáohy vọng tốt đẹp nhất cho việc độc lập khỏi Tàu Cộng. Từ 1950, quốc gia Tây Tạng đã bị chiếm đóng bởi lực lượng quân sự Tàu Cộng và tuyên bố như một phần của quốc gia ấy, vốn không bao dung cho Phật giáo Tây Tạng hay bất cứ tôn giáo nào khác. Năm 1959, Đức Đạt Lai Lạt Ma và hàng nghìn người khác đã đào thoát khỏi Tây Tạng để tránh sự đàn áp tôn giáo và ngày nay họ vẫn sống lưu vong. Trong khi ấy, qua một đám đông những người Hán ào ạt định cư tại Tây Tạng, người Hoa hiện đông hơn người Tây Tạng trong xứ sở của chính họ.

Từ khi đào thoát sang Ấn Độ, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tận dụng không mệt mõi vị trí của ngài như lãnh tụ tôn giáo và chính trị của người Tây Tạng để cho toàn thế giới biết về những sự kiện trong xứ sở của ngài và cố gắng để tác động đến chính quyền Tàu Cộng đồng ý để đạt được một mức độ nào đó của sự tự trị cho dân tộc của ngài. Những mục tiêu khác của ngài là bảo tồn nền văn hóa Tây Tạng, vốn ngài tin tưởng rằng có nhiều cống hiến cho thế giới.

Đồng bào Tây Tạng gọi lãnh tụ của họ bằng nhiều danh hiệu. Một ít trong số này là Kundun, Yishin Norbu, Kyabgon, và Gyalwa Rinpoche. Trong tiếng Anh có nghĩa là “Presence,” “Savior,” “Wish-Fulfilling Gem,” và “Precious Victor.” Tiếng Việt tạm dịch là “Đấng Thị Hiện,” “Đấng Cứu Độ,” “Ngọc ước Toại Nguyện,” và “Đấng Chiến Thắng Tôn Quý.” Những danh hiệu khác bao gồm “Holy One,” “Glorious One,” “Mighty of Speech,” “Excellent Understanding,” “Absolute Wisdom,” “Defender of the Faith,” and “Ocean.” Tiếng Việt là “Đức Thánh Thiện,” “Đấng Vinh Quang,” “Đấng Ngôn Từ Toàn Năng,” “Đấng Thông Hiểu Tuyệt Hảo,” “Đấng Tuệ Giác Vô Thượng,” “Đấng Thủ Hộ Niềm Tin,” và “Đấng Đại Dương.”

Trong lời nói đầu quyển sách của ngài Tự Do trong Lưu Đày: Tự Truyện của Đạt Lai Lạt Ma, Đức Đạt Lai Lạt Ma tự định nghĩa ngài:

Đạt Lai Lạt Ma có những ý nghĩa khác nhau đối với những người khác nhau. Đối với một số người nó có nghĩa Tôi là một vị Phật Sống, hóa thân trên trái đất của Đức Quán Thế Âm, vị Bồ tát của Từ Bi. Đối với những người khác nó có nghĩa rằng Tôi là một vị “Thánh Vương” (god king). Vào cuối những năm 1950 nó có nghĩa là Phó Chủ Tịch Quốc Hội của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Sau đó, khi tôi đào thoát lưu vong, tôi bị gọi là một kẻ phản cách mạng và một kẻ ăn bám. Nhưng không có điều nào trên đây là khái niệm của tôi. Đối với tôi “Đạt Lai Lạt Ma” là một danh hiệu biểu thị văn phòng tôi làm việc [chức vị tôi đảm đương]. Tự chính tôi chỉ là một con người, và nhân đây là một người Tây Tạng, người chọn lựa làm một tu sĩ Phật giáo.

MỘT VỊ THẦY LỚN

Danh hiệu “đạt lai” có nghĩa là “đại dương” trong tiếng Mongolia. Chữ “lạt ma” đơn giản có nghĩa là “vị thầy,” tương tự như thuật ngữ “guru” (đạo sư) trong tiếng Sanskrit. Gộp chung lại, có thể được diễn dịch là “vị thầy đại dương” hay “đạo sư đại dương” do bởi chiều sâu của tuệ trítừ bi của ngài. Có hàng nghìn lạt ma trên thế giới. Họ được dạy và thực hành Phật giáo chỉ ở Tây TạngMông Cổ, vùng Trung Á, nhưng bây giờ rải rác khắp thế giới. Mỗi lạt ma phải trải qua một sự rèn luyện sâu rộng về triết lý và nghi lễ Phật giáo Tây Tạng trước khi được cho phép giảng dạy. Trong cách này, họ tương tự như những tu sĩ Thiên Chúa giáo La mã, những mục sư Tin Lành, những giáo sĩ Do Thái, giáo sĩ Hồi giáo, những người phải được rèn luyện trong những niềm tin tương ứng cho đến khi thấy rằng đủ năng lực để giảng day và thuyết giáo. Mặc dù thế, có một sự khác biệt rất lớn tách rời những lạt ma Phật giáo khỏi những đối tác của họ trong hầu hết những tôn giáo khác trên thế giới. Theo sự tính toán của Phật giáo Tây Tạng thì hầu hết những vị lạt ma là hàng trăm tuổi.

Phật giáo tin tưởng vào sự tái sinh – rằng khi một người chết đi, tâm thức của họ được tái sinh trong một thân thể khác – họ tin những vị thầy lớn sở hữu tâm thức vốn sẽ trở lại, từ đời này sang đời khác, để hướng dẫn họ. Đức Đạt Lai Lạt Ma là một vị thầy lớn. Trong thực tế, người Tây Tạng tin rằng tất cả mười bốn Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngược lại những năm 1300, cùng sở hữu một tâm thức. Do bởi niềm tin này, họ tôn kính Đức Đạt Lai Lạt Ma, xem ngài như một vị Thánh Vương.

Mặc dù nhiều người không phải Phật tử không tin vào sự tái sinh – và, do thế, không cùng chia sẻ niềm tin trong nhiều kiếp sống của ngài – nhưng hàng triệu người khắp thế giới  vẫn có niềm tôn kính vô vàn với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Sự lạc quan hoàn toàn, dáng vè tích cực, sự thông minh nhanh lẹ, sự tiếu lâm rạng rở,  cảm  nhận hiển nhiên của sự bình an nội tại của ngài, cũng như sự quan tâm rõ ràng cho tất cả mọi người, đã là cảm hứng cho mọi người ở tất cả mọi đức tin. Đối với nhiều người, đó là một hiện tướng kỳ lạ - luôn luôn ăn mặc trong y áo màu nâu đỏ và vàng kim, tuy thế, đeo cặp kính hiện dại và đôi giày nâu Oxford – làm họ tò mò. Đối với những người khác, đó là thái độ trầm lặng, khiêm tốn của ngài, nụ cười mĩm luôn trên đôi môi, cùng tiếng bật cười nhanh chóng và chân thành của ngài.

Tuy thế, không phải tất cả mọi người cùng chia sẻ ý kiến cao cả của vị tu sĩ đáng kính này. Ngài từng bị gọi là một kẻ phản cách mạng và một kẻ ăn bám bởi nhà cầm quyền Tàu Cộng. Một số người thấy những nổ lực để bảo tồn nền văn hóa Tây Tạng của ngài như cản đường tiến triển – bám vào quá khứ phong kiến. Một số tin rằng ngài tạo ra rắc rối bất cứ khi nào ngài đi hay bất cứ điều gì ngài làm là vì danh tiếng của chính ngài hay vì lợi lạc tiền bạc. Một số đồng bào của ngài không đồng ý với chương trình của ngài. Bất chấp mọi tranh luận, mọi người trên khắp thế giới được Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền cảm hứngthích thú để nghe những gì ngài nói, mặc cho sự khởi đầu khiêm tốn của ngài trong một vùng xa xôi hẻo lánh của Trái Đất.

***

Trích từ The Dalai Lama (People in the News)

Tuệ Uyển chuyển ngữ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2219)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2521)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2345)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2661)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2433)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2532)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2535)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2192)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3046)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2647)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2706)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2986)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2587)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4085)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3063)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3304)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2285)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2997)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2605)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2627)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2474)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2683)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3265)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2594)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2049)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2902)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2937)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2707)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2508)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant