Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Abhidhamma Là Gì?

14 Tháng Hai 202218:57(Xem: 3666)
Abhidhamma Là Gì?
ABHIDHAMMA LÀ GÌ?

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Buông Xả Hơn Thua Nhưng Không Im Lặng

Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li, vi tế những vận hành, diễn tiến của tâm. Không thực tế vì nó bàn đến những vấn đề ở ngoài sự hiểu biết bình thường của con người; ở ngoài chuyện áo cơm, tiền bạc, thế sự và thế tình...

Nhận xét ấy không phải là sai. Tuy nhiên, nếu chịu khó nghiên cứu, học hỏi, làm quen một số thuật ngữ để vượt qua những giới hạn ban đầu thì chúng ta sẽ nhìn bộ môn này với đôi mắt khác thế.

Abhidhamma rất lợi ích cho người học Phật, tu Phật. Nhờ sự phân tích chi li ấy mà ta có thể thấy rõ những dấy khởi vi tế của tâm niệm; đồng thời thấy rõ những yếu tố tâm lý cùng sự phát sanh tương quan của chúng. Ở đây, ta sẽ có được cái nhìn nội quán, chiếu soi để thấy rõ mình một cách tận tường hơn. Còn vấn đề thực tế hay không thực tế thường tùy thuộc quan niệm, sự hành trì hoặc sự lập cước của kiến tri. Môn Abhidhamma, theo tôi, nó thực tế, thiết thực nhất trên đời này; vì tâm niệm, tư tưởng là cái đang là, đang vận hành, đang diễn tiến. Nó chính là sự sống, là dòng sống; và nó tạo nên thế gian, thế giới. Ngoài ra, đi sâu vào Abhidhamma, ta sẽ thấy ở đây trình bày, giảng nói về một sự thật khác xa với những sự thật ước lệ của thế gian. Nó là sự thật bất di dịch, không thay đổi dẫu trải qua sự biến thiên của thời gian, không gian, lịch sử, thời đại, và quốc độ. Nó là sự thật, nhưng mà là sự thật ở ngoài quan niệm thế tình, ở ngoài sự hiểu biết thường tục, vượt khỏi giới hạn của ý thứctrí năng quen thuộc của chúng ta.

Abhidhamma thường dịch là vô thượng pháp, thắng pháp, vi diệu pháp. “Abhi” nghĩa là cao thượng, cao cả, thù thắng, vi diệu. Do vậy, Abhidhamma nó cao hơn, lớn hơn, vi diệu hơn Kinh tạngLuật tạng. Nói như vậy không có nghĩa Kinh, Luật tạng là thấp. Cao hơn, vi diệu hơn, hàm chỉ phương cách trình bày Pháp chứ không phải là nguyên nhân thù thắng đưa đến giác ngộ, giải thoát. Có một số người học Abhidhamma là nhằm để thu góp, tích lũy kiến thức, tăng trưởng bản ngã, rơi vào hý luận, huyền đàm, rơi vào chấp kiếnsở tri thì vẫn là những trình độ thấp thỏi, những đại họa, những căn bệnh trầm kha! Thời Phật tại thế, nhiều vị tỳ-khưu chỉ chấp trì Luật và nghe Kinh vẫn giác ngộ, giải thoát như thường. Thậm chí có nhiều vị chỉ nghe một câu kệ ngôn thôi đã đắc Thánh quả! Họ có cần gì môn học Abhidhamma đâu! Do vậy, Abhidhamma cao cả, thù thắng vì trình bày những pháp tế vi, sâu nhiệm, cần thiết và hữu ích cho những ai có đời sống tu học nghiêm túc, tinh cần thiền địnhthiền tuệ, muốn trang bị cho mình những thấy biết chân xác, vi diệu, tinh tế về tâm và về pháp. Nó là thuốc bổ cho người trí nhưng lại là độc dược cho người ngu. Lợi cho Thiền sư chân tu và có hại cho một số Pháp sư huyên thuyên giảng nói mà không chịu thực nghiệm, tu tập.

Là môn tâm lý học của Phật giáo?

Abhidhamma thường được giới nghiên cứu, các nhà học giả xưa nay, đông cũng như tây xem như là môn tâm lý học của Phật giáo. Điều ấy có đúng chăng?

Môn tâm lý học tây phương là một bộ môn khoa học với nỗ lực khảo sát phần tinh thần của con người và giải mã nó bằng ức đoán, suy luận hoặc phương pháp kiểm chứng. Những hoạt động của lý trí, tình cảm, ký ức, vô thức, tiềm thức... đều được các nhà tâm lý đem ra phân tích, tổng hợp, trắc đạc, mổ xẻ, đào xới... rất chi li, thấu đáo. Sự nghiêm túc, tinh minhphương pháp rất khoa học của các nhà tâm lý đã một phần nào giải thích được miền tâm bí hiểm của con người. Tuy nhiên, một phần không phải là tất cả. Đôi khi do suy luận, ức đoán hoặc kiểm chứng vội vã, nông cạn mà đưa ra những kết luận tưởng như là thực thấy, thực biết! Lại nữa, các nhà tâm lý đã coi tâm như một đối tượng khách quan để khảo sát. Họ tin vào tư duy ngã tính, dựa vào khả năng của người quan sát, tin vào giác quan trao cho thông số nên thường thiếu chính xác. Các ý niệm về chủ thể, khách thể như môn tâm lý học rất xa lạ với Abhidhamma - vốn dựa vào sự thật duyên khởi vô ngã tính.

Thế giới tâm của Abhidhamma, do vậy rất lung linh, ảo diệu, nhưng rất hiện thực (vijjamāna) nó không thể bị quy định, giới hạn trong những ý niệmphạm trù bất xác. Nói rõ hơn, muốn thấy rõ thế giới tâm của Phật giáo, không thể dùng lý trí khoa học thực nghiệm, các loại trí (ñāṇa) thế gian mà phải có thắng trí (abhiñāṇa), hoặc rốt ráo hơn, phải có trí tuệ (paññā) trực giác chiếu soi. Vả chăng, không bao giờ tâm lý học tây phương biết rõ toàn bộ về tâm Dục giới. Còn tâm Sắc giới, Vô sắc giới, Siêu thế giới lại càng bất khả.

Như vậy, việc so sánh, xem Abhidhamma như môn tâm lý học Tây phương, xem ra có vẻ khiên cưỡng, áp đặt, chỉ tương hợp nơi danh từ hoặc vài trạng thái tâm lý hời hợt, thô tháo ở bên ngoài. Muốn thấy rõ thế giới tâm của Abhidhamma phải tu tập thiền định và thiền quán (samādhi và vipassanā), ấy là điều kiện cần và đủ vậy. Các bộ môn khoa học nỗ lực khảo sát về tâm đều bất khả.

Là môn siêu hình học của Phật giáo?

Môn siêu hình học Tây phương bàn về những lãnh vực siêu hình. Họ bàn về thượng đế, sự tạo thiên lập địa hoặc tìm hiểu các nguyên nhân sinh ra con ngườivạn hữu. Họ cố đi tìm một thực thể đầu tiên, ví dụ là nước hay lửa... hoặc một nguyên lý siêu nhiên nào chi phốiđiều hành vũ trụ! Như vậy, siêu hình học Tây phương nói về những lãnh vực mơ hồ, vô hình bằng khả năng của lý trí suy luận chứ không có thực kiện minh chứng. Ngay các môn về hình nhi thượng của đạo học Đông phương cũng hoàn toàn do con người đẻ ra, suy luận nên, và chúng đều là thế giới trừu tượng bất khả giác.

Abhidhamma không phải thế. Abhidhamma không bàn những vấn đề như siêu hình học Tây phương hoặc như hình nhi thượng của Đông phương.

Nếu hiểu siêu hình là bàn những vấn đề ở ngoài sự hiểu biết của con người; ngoài, trên kiến thứctrí năng thường nghiệm của con người thì tạm thời chấp nhận môn Abhidhamma là như thế. Tuy nhiên, khi Abhidhamma nói về những vấn đề vượt thế giới lý niệm của con người, không phải nói chỉ để mà nói, nói để chứng tỏ sự cao siêu, huyền bí... mà nói là để mà tu tập. Thế giới vượt thoát, ở ngoài lý niệm của Abhidhamma, con người có thể chứng nghiệm, thấy rõ ngay tại đây và bây giờ; tức vẫn là thế giới của khả chứng, khả giác và khả nghiệm. Sắc giới tâm, vô sắc giới tâm, siêu thế giới tâm là những tâm ở thế giới cao và xa – ngoài sự hiểu biết của con người – nhưng ai cũng có thể tu tập, thiền địnhthiền quán để thực nghiệm nó ra sao. Chính do mặc cảm tự ti, sợ rằng Phật giáo không có bộ môn siêu hình học cao siêu như Tây phương mà các nhà học Phật đã làm một sự so sánh rất ngây thơ, đáng phàn nàn vậy.

Là môn đạo đứcluân lý của Phật giáo?

Ai cũng hiểu rằng, đạo đứcluân lý thế gian thường tùy thuộc tín ngưỡng, truyền thống văn hóa, tập quán, phong tục trải qua từng thời đại. Lại nữa, đạo đức, luân lý quốc độ này khác quốc độ kia, thời này không giống với thời nọ. Bộ môn đạo đức học và luân lý học cũng cố gắng tìm ra một tiêu chuẩn phổ quát, một thước đo chung cho con người. Cũng có một số giá trị tinh thần được tìm thấy, được đem vào nhà trường để giảng dạy, mang đến một số lợi ích nhất định cho thế hệ nào đó trong tương giao cộng đồng xã hộicon người. Tuy nhiên, bao giờ, các môn học này cũng không thể hoàn bị nhân cách con người, hoàn thiện trọn vẹn các giá trị nhân văn và mỹ học vì nó tùy thuộc tôn giáo, tín ngưỡng hoặc các thể chế chính trị. Bao giờ nó cũng cục bộ và phiến diện.

Đạo Phật trong Abhidhamma không nói đến đạo đứcluân lý. Nghĩa là không nói anh phải sống như thế này mới trở thành người tốt, sống như kia là xấu; không nói anh phải có bổn phận với dòng họ, gia đình, làng xóm; phải cần có nghĩa vụ này, nghĩa vụ nọ. Abhidhamma có nói đến thiện, ác nhưng không nói hành động như thế này là thiện, như thế kia là ác. Thiện, ác trong Abhidhamma không tùy thuộc xã hộitùy thuộc nơi con người. Tùy thuộc nơi con người nhưng không lấy con người làm tiêu chuẩn, làm thước đo, làm giá trị phổ quát. Vả chăng, con người vẫn hàm tàng một hầm thói hư, tật xấu và cũng có cả kho báu đức hạnh. Vậy, rõ ràng, tiêu chuẩngiá trị ấy ở nơi tâm. Tâm nào khiến con người nhiễm nặng tham sân si, rời xa mục đích giác ngộ giải thoát; tâm ấy được gọi là bất thiện. Tâm nào khiến con người giảm nhẹ tham sân si, tiến gần đến mục đích giác ngộ, giải thoát; tâm ấy được gọi là thiện. Như vậy, rõ ràng, Abhidhamma khác xa đạo đứcluân lý thế gian.

luận tạng của Phật giáo?

Cần phải minh định rằng, những vấn đề được Đức Phật đề cập trong Abhidhamma là do sự thấy biết như thực của ngài, do sự sáng suốt giác ngộ của ngài. Chúng không phải được nói ra do lý luận, luận bàn, suy luận, luận giải, luận kiến, luận thức, luận tri...

Những kiến giải của chư tổ đại thừa thường y cứ từ kinh văn nguyên thủy, có tính cách triển khai tư tưởng, giảng rộng thêm những điểm quá cô đọng, hoặc quá giản đơn, quả thậtcông đức lớn của quý ngài. Lại nữa, cũng nhờ những kiến giải sâu rộng của chư tổ, có khế lý, khế cơĐạo Phật phát triển qua nhiều thời đại, nhiều quốc độvăn hóatín ngưỡng đa dạng, bất đồng. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, do quyền biến phương tiện cho phù hợp với lý cơ, chư tổ khó tránh khỏi những kiến giải do sự thấy biết riêng tư hoặc do suy luận. Vì lý do đó, các luận của các tông phái phát triển đi sau không còn được gọi là như thị thuyết, như thực thuyết; mà được gọi là luận thì hoàn toàn chính xác. Ví dụ: “Duy thức luận” của Vô Trước - Thế Thân, “Đại thừa khởi tín luận” của Mã Minh, “Trung quán luận” của Long Thọ...

Abhidhamma không phải là những luận ấy, chỉ nên gọi là tạng Abhidhamma, vì nó là như thị thuyết, như thực thuyết.

Abhidhamma có phải do Phật thuyết không?

Có nhiều học giả, nhà nghiên cứu nghi ngờ là Abhidhamma không phải do Phật thuyết mà do các vị sư uyên bác về sau soạn thảo. Nhưng theo truyền thống Theravāda, Abhidhamma là do Đức Phật thuyết giảng tại cung trời Đao Lợi vào hạ thứ 7 để đáp đền ân cù lao huyết nhũ đến mẹ là bà Mahāmāyā; sau đó, Đức Phật thuyết tóm tắt tinh yếu cho Tôn giả Sāriputta (Xá-Lợi-Phất) nghe rồi Tôn giả giảng nói rộng rãi đến Tăng chúng.

Cũng có thuyết trung dung, cho rằng, những cơ bản của Abhidhamma có từ thời Phật, do Phật thuyết; nhưng hình thành nền văn học Abhidhamma là do chư Tăng bác học lập bút, sớm nhất là từ kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ ba, vào khoảng 218 năm sau Phật Nhập Diệt. Cụ thể là bộ Kāthāvatthu (Dị bộ luận) những điểm tranh luận giữa các bộ phái do ngài Moggallānaputta biên soạn.

Dù do tương truyền hoặc do sử liệu của các bộ phái có sự dị biệt, giá trị của Abhidhamma không vì vậy mà giảm sút; trái lại, càng tôn tầm mức quan trọng của Abhidhamma trong đời sống học Phật và tu Phật của nhiều thời đại. Các tông phái đều phải lấy Abhidhamma làm cơ sở để viết các bộ luận đi sau; ví dụ: Thành duy thức và A-tỳ-đàm-câu-xá (Abhidhammakosa)...

Cuối cùng, điểm đáng nói là văn học Abhidhamma rất chuyên biệt và đặc thù. Những thuật ngữ Đức Phật dùng ở đây rất khác so với Kinh tạngLuật tạng. Trong Kinh, Luật tạng, Đức Phật thường dùng những danh từ tục đế, thường ngữ như người, loài vật, hữu tình, tự ngã, đàn ông, đàn bà... Nhưng trong Abhidhamma, mọi pháp được chia chẻ tỉ mỉ, tinh tế hơn; và những danh từ thuộc pháp ngữ, chân đế như uẩn, xứ, giới... lại được sử dụng.

Tóm lại, để kết luận, Abhidhamma là môn học về Tâm, cũng khảo sát những diễn tiến, vận hành của tâm lý mà không phải là tâm lý học. Nói về những vấn đề cao siêu vượt thế giới hữu hình, lý trí thường nghiệm của con người mà không phải siêu hình học. Nói về những trạng thái tâm thiện, tâm bất thiện, là tốt, là xấu mà không phải môn đạo đức, luân lý học. Giảng nói những vấn đề tương tự các luận của chư tổ mà không phải là luận...

Nói về Tâm nhưng không luận giảng một cách mơ hồ, trừu tượng. Vì do trí tuệ thấy như thực, biết như thực nên đức Phật đã nói về những sát-na tâm rất cụ thểcặn kẽ. Chính những sát-na tâm ấy sinh diệt quá nhanh để cho chúng ta mang ảo giác về ngã, linh hồn, tự ngã. Sát-na tâm này máy móc, khách quan; sát-na tâm kia do Tư (cetanā) điều động nên tạo nghiệp... Học Abhidhamma, chúng ta sẽ thấy rõ chúng ta không có tâm mà chỉ có sát-na tâm. Nhưng sát-na tâm ấy cũng không thực tính, không có ngã tính vì nó vừa sinh lại vừa diệt trong thời gian 1/17 triệu giây! Rồi, 1/17 triệu giây ấy kết nối miên tục mà tạo nên các yếu tố tâm lý. Nếu các yếu tố tâm lý này được kết hợp bởi các tâm sở tốt lành thì ta sẽ trở nên con người tốt lành; được kết hợp bởi các tâm sở xấu ác thì ta sẽ trở nên con người xấu ác... Các tầng trời Sắc giới, Vô sắc giới, các tầng Thánh quả đều y như thế. Nó chính xáchợp lý như sự phân tích của khoa học.

Người tu thiền định và thiền quán mà không học Abhidhamma, quả thật, như đi đêm mà không có đèn, ngoại trừ có thiền sư đích thực chỉ lối soi đường.

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10677)
Kinh nghiệm sống là kinh nghiệm đầu tiên và tối cùng của hy vọngthất vọng, của hạnh phúc và khổ đau – ta mơ ước quá nhiều, nên ta khổ đau càng lắm...
(Xem: 14807)
Thuở nhỏ, gia đình cậu bé rất nghèo, tới bữa, chẳng mấy khi có đủ cơm ăn, mẹ liền lấy cơm ở trong chén mình chia đều cho các con.
(Xem: 20731)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 13559)
Con thấy rằng nếu người ta làm thơ hay viết văn ca tụng ba thì cũng chỉ có những hình ảnh, những biểu tượng dù cao cả, sáng chói nhưng không khỏi nét khô khan...
(Xem: 14264)
Những buổi chiều tàn, khi khách hành hương đã vãn, thì thằng Hoàng thường thơ thẩn một mình quanh các con đường mòn ngoằn ngoèo bên sườn núi đá lởm chởm với đầy hang hốc.
(Xem: 12300)
Đã lâu rồi, gặp lại nhau, chúng mình đều già hết. Người bạn thân ở lúc nào đó, nay nhìn lại, cũng khó nhận ra. Mái tóc đã bạc, vầng trán có nhiêu gạch dài...
(Xem: 12810)
Xưa có một tên đạo chích rất lành nghề. Một hôm, con trai ngỏ ý muốn học nghề của cha. Tên ăn trộm liền dẫn con đi thực tập. Hai cha con đến một nhà giàu có...
(Xem: 14370)
Chuông, tiếng Phạn gọi là ghanta, ở Trung Quốc dịch là chung, khánh, là pháp khí dùng để gõ thông báo giờ giấc làm Phật sự và để tập hợp mọi người trong chùa.
(Xem: 14366)
Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người.
(Xem: 15687)
Mùa đông ở đây không có tuyết, nhưng cũng đủ lạnh cho những chiếc lá ngả màu và em tôi quấn thêm chiếc khăn quàng cổ. Tôi thích mùa đông...
(Xem: 13014)
Mỗi năm có bốn mùa và mỗi mùa có ba tháng. Thời gian được chia ra như thế thật rõ ràng ở các châu Úc, châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 17420)
Má không biết đường sá thành phố, cũng chẳng mấy khi lên Sài Gòn, họa hoằn là đi khám bệnh hoặc lên thăm bà con. Mỗi khi lên thành phố, má thường rất lo lắng.
(Xem: 15733)
Trong cuộc sống trầm luân khổ hải này, chúng ta không chịu buông xảtham luyến tất cả những gì ‘của mình’; ai cũng đầu tắt mặt tối, bận rộn suốt cuộc đời...
(Xem: 12491)
Kinh điển nhà Phật thường nói lòng từ bi của Phật và các vị bồ-tát đối với chúng sinh giống như lòng thương của cha mẹ đối với con cái.
(Xem: 12476)
Mới vừa đây, trên cành cây, có nhiều cánh hoa mai vàng nở, mắt mơ màng sau bao năm tháng ẩn nhẫn chờ đợi ngày khoe áo mới. Có những cành đào sum sê là hoa...
(Xem: 14032)
Cứ mỗi lần nhớ thầy, giấy mực là người bạn duy nhất để con trút ra vô vàn tiếng nói tự cõi lòng của một người đệ tử tận chốn phương xa. Mỗi tuần một lá...
(Xem: 16003)
Danh từ Generation Gap nghĩa là Khoảng Cách Thế Hệ (mỗi thế hệ cách nhau từ 20-40 năm để người trẻ tuổi lớn lên trở thành người lớn tuổi)...
(Xem: 13625)
Tôi gọi người cha là Anh, còn con trai ông là Dũng, vì hai cha con ông thật... anh dũng. Mỗi sáng, họ có mặt ở công viên rất sớm.
(Xem: 14965)
Sau những cái nóng nực gay gắt của mùa hạ đã đi qua, trời bắt đầu sang thu, thoáng đâu đây cơn gió đầu thu nhè nhẹ thổi sang như báo hiệu trong thiên hạ một điều gì đó.
(Xem: 14507)
Liệu hạnh phúc của con người có bị đám yêu tinh kia giấu mất? Câu trả lời tùy thuộc chính bản thân chúng ta trong quá trình tìm kiếm hạnh phúc cho mình...
(Xem: 13597)
Một thời Thế Tôn trú ở Kapilavatthu, dạy các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe...
(Xem: 13454)
Khi tôi viết những dòng chữ này thì tôi vẫn còn cách người mẹ già của tôi đến gần một ngàn cây số. Và những dòng chữ rất riêng tư này, tôi tin rằng...
(Xem: 11715)
Đúng vào hôm tôi vừa ở Phật Học Đường Báo Quốc về thì Vĩnh đến thăm. Anh đến mang cho tôi một chồng sách Phật viết bằng tiếng Pháp mà anh mới gởi mua ở tận xứ xa.
(Xem: 13841)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời,...
(Xem: 12978)
Cạnh con đường mòn, ven sườn núi tại Ngọc Nam, có một ngôi chùa nhỏ hoang vắng, nằm im lìm giữa một nơi hẻo lánh và quạnh quẽ. Mùa xuân năm ấy,...
(Xem: 14934)
Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp...
(Xem: 12588)
Cơn trốt tàn nhẫn quét ngang cánh đồng trống, ngang qua những căn nhà gỗ mong manh, xoáy mạnh và bốc lên cao những người, thú, đất đá và cây cối…, rồi vô tình thả xuống lại trên những đồng cỏ...
(Xem: 17422)
Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy. Một hôm, người chủ định đem chúng gieo...
(Xem: 16435)
Như đã nói, nhiều bạn trẻ chọn những xâu chuỗi màu tối của Phật giáo, lẫn giữa những sắc màu sinh động khác, thoạt đầu chỉ vì muốn tạo cho mình một phong cách mới lạ...
(Xem: 14580)
Trong một khu nhỏ ở phía Tây quảng trường Washington, đường phố chạy ngoằn ngoèo và tự cắt thành những mảnh nhỏ gọi là “biệt khu”. Những “biệt khu” này tạo thành những góc...
(Xem: 14842)
Thầy thơ lại rút chiếc hèo hoa ở giá gươm, phe phẩy roi, đi xuống phía trại giam tối om. Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhạt màu vàng son, một cây đèn đế leo lét rọi vào một khuôn mặt nghĩ ngợi.
(Xem: 26807)
Tinh thần hiếu đễ của người Á Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng đã thấm sâu vào xương tủy của mọi người, và phát khởi ra sự sinh hoạt bên ngoài...
(Xem: 14705)
Sau hai năm học con vẫn học giỏi với số phẩy trên 8,0, con cố gắng từng ngày vì niềm hy vọng của ba má, niềm tin của các em và của nhiều người gửi gắm.
(Xem: 13602)
Thượng Tọa Thích Quang Lạc ấn nút cho chiếc ghế bành Lazy boy giữ độ nghiêng vừa ý, đoạn ngã người lún sâu vô lớp nệm mousse dầy cộm,...
(Xem: 13816)
Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá cây.
(Xem: 13726)
Đức Phật ra đời - như trong kinh Pháp Hoa nói - chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn. Đó là: "Mở bày cho chúng sanh hiểu để vào tri kiến Phật".
(Xem: 15010)
Em thấy mẹ chẳng cần vi tính, vẫn âm thầm lập trình cá, cơm, rau. Biết chị Hai cái áo ủi không ngay, còn anh nữa đôi giày cả tuần chưa chịu đánh!
(Xem: 15345)
Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn...
(Xem: 14044)
Biển sâu thẳm, biển mênh môngdiễm tuyệt, biển bao dung vô lượngbiến ảo vô biên... Vì thế biển cũng là Tâm.
(Xem: 14974)
Trong một số lượng lớn học trò, Rajeev là một người có tài nhất, chăm chỉ, sáng tạo,nên anh ta tiếp thu nhanh hơn nhiều so với các bạn đồng môn.
(Xem: 13796)
Có một vị bồ-tát rất tầm thường ở trong nhà của tôi, nhà của các bạn, nhà của mọi gia đình ở xứ này. Vị bồ-tát ấy cũng có mặt ở các văn phòng, hãng xưởng...
(Xem: 14704)
Cuộc sống không phải là một mẻ lưới của số phận. Cuộc sống chính là một mối giao hoà bất tận giữa mỗi cá thể đang tồn tại. Và trong mối giao hoà đó...
(Xem: 14686)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không. Nếu cái có vô cùng vô tận, thì cái không cũng vô tận...
(Xem: 16671)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 18249)
Bảo Lâm bước chậm lại... ý như để lắng nghe tiếng chim hót líu lo từ phía khu rừng trúc. Vài tia nắng nhẹ vừa xuất hiện phía hừng đông, bầu trời trong xanh văng vắt...
(Xem: 27165)
Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua anh minh quả cảm, nhiều lần xông pha trận mạc đánh tan quân Nguyên Mông...
(Xem: 23739)
Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù gió đông cắt da cắt thịt...
(Xem: 26475)
Nó đưa tay quệt đôi mắt mọng nước giọng đầy kiên quyết nói với cậu Út: - Nếu con thấy người đàn bà ấy xuất hiện ở nhà này lần nữa, con sẽ không tha đâu.
(Xem: 16754)
Mười năm vườn xưa xanh tốt Hai mươi năm nắng rọi lều tranh Mẹ tôi gọi tôi về Bên bến nước rửa chân
(Xem: 19017)
Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant