Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cầu Nguyện Trong Phật Giáo

15 Tháng Hai 202219:01(Xem: 2952)
Cầu Nguyện Trong Phật Giáo
Cầu Nguyện Trong Phật Giáo

Thích Thanh Hòa

Có Vinh Thì Có Nhục

Cầu nguyện không thuộc lãnh địa của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. Cầu nguyện là một hành vi trong đó chúng ta biểu lộ những ước muốn khẩn thiết và mãnh liệt tự trong sâu thẳm của chúng tamong ước chúng được thành tựu”. Đức Phật nhấn mạnh rằng, để nhận ra tính linh thánh của chúng ta - tức Phật tánh hay giác tánh - chúng ta phải tìm từ bên trong, không phải từ bên ngoài.

Có nhiều truyền thốngbộ phái trong Phật giáo, cũng giống như có nhiều giáo phái ở trong các tôn giáo khác. Những truyền thống Phật giáo khác nhau có những lễ nghi, pháp tu khác nhau nhưng chúng đều có chung một giáo lý căn bản của Đức Phật, giáo lý ấy được tóm tắt ở trong Tứ đếBát chánh đạo. Ở đây chúng ta không thảo luận về nội dung giáo lý ấy mà chỉ bàn đến vai trò của cầu nguyện trong Phật giáo.

Trong khi bàn đến nội dung đó, chúng tôi muốn chia sẻ một số trích dẫn từ những truyền thống Phật giáo và những đạo sư khác nhau, tiếp đó sẽ trình bày một số những nhận định của bản thân. Nên nhớ trong Phật giáo, từ “thiền” được dùng thường xuyên hơn từ “(cầu) nguyện”, nhưng cả hai từ đều được dùng để chỉ một phương pháp tu tập bản thân, mặc dù có những sự khác biệt trong mục đích và cấu trúc. Điều này sẽ được giải thích ở đoạn sau.

Trước hết chúng ta hãy trích lời của nhà sư Tây Tạng Yongey Mingyur Rinpoche từ cuốn sách The Joy of Living (Niềm Vui Sống) của ông.

“Không cần biết bạn thiền bao lâu, hay bạn đang sử dụng phương pháp nào, mọi pháp thiền Phật giáo sau rốt sẽ phát khởi tâm từ bi, dù bạn có nhận thức được nó hay không. Bất kỳ lúc nào nhìn vào tâm mình, bạn phải nhận thấy được sự giống nhau giữa bạn với những người xung quanh. Khi biết rằng bạn muốn được hạnh phúc, bạn không thể không nhìn nhận ước muốn tương tự nơi những người khác; và khi thấy rõ nỗi lo sợ, giận dữ hay ghen ghét nơi bạn, bạn không thể không thấy rằng mọi người xung quanh cũng có cảm giác lo sợ, giận dữ hay ghen ghét tương tự. Khi bạn quán chiếu tâm mình, tất cả những sai biệt ảo tưởng giữa bản thân bạn với những người khác sẽ tự động tan biến; và khi ấy lời nguyện cầu kinh điển về Tứ vô lượng tâm trở nên tự nhiên và miên mật như nhịp đập của con tim:

Nguyện cầu hết thảy chúng sinh được hạnh phúc và đầy đủ nhân duyên của hạnh phúc. (Từ)
Nguyện cầu hết thảy chúng sinh thoát khỏi khổ não và những nguyên nhân đưa đến khổ não. (Bi)
Nguyện cầu hết thảy chúng sinh luôn sống trong yên vui không có khổ đau. (Hỷ)
Nguyện cầu hết thảy chúng sinh xa lìa tất cả chấp trước, oán ghét, an trú trong tịch tịnh. (Xả)

Tiếp theo là trích dẫn từ cuốn Prayer in Buddhism (Cầu nguyện trong Phật giáo) của G.R. Lewis, một người theo Tịnh độ Chân tông Nhật Bản.

“Sự cầu nguyện trong Phật giáo là một phương pháp để thức tỉnh những năng lực bi, trí, dũng vốn tiềm ẩn trong chúng ta hơn là thỉnh cầu những năng lực bên ngoài nhờ vào sự kính sợ, sùng tínlợi lộc thế gian hay thần thánh nào. Cầu nguyện của Phật giáo là một hình thức thiền, đó là một phương pháp tu chỉnh nội tâm. Cầu nguyện Phật giáo thay thế cái tiêu cực bởi cái đức hạnh, và hướng chúng ta đến những cái tốt đẹp của đời sống”.

Lewis đưa ra ví dụ Lời Cầu Nguyện Từ Bi (The Prayer of Metta-karuna) sau đây được lấy từ ngài Tịch Thiên, một đại đạo sư Phật giáo Ấn độ thế kỷ thứ VIII:

Đấng Chân như của Thọ mạngQuang minh
Xin dâng trọn niềm tin nơi Đại bi của Ngài
Mong ngài trừ bỏ sự ngu muội nơi thân con
Biến con thành suối nguồn yêu thương.
Con nguyện làm lương dược cho những ai đang bệnh ốm
Chăm sóc họ cho đến khi những đau đớn được chữa lành
Con nguyện làm thực phẩm trong mùa đói khát
Bảo hộ cho những người nghèo khổ đơn côi
Con nguyện làm đèn sáng cho người trong đêm tối
Nguyện làm nhà cho mọi người nghỉ ngơi
dẫn đường cho kẻ tìm lối qua bờ bên ấy
Con nguyện cho mọi người được yên vui
Và không ai còn khổ đau bởi vì con
Mặc cho họ có ghét bỏ hay thương yêu
Có đánh đập hay trách móc con nhiều
Nguyện tất cả đều thấy được niềm tin rất chân thành”.

Có sự sóng đôi giữa lời nguyện Phật giáo này với lời nguyện của Thánh Francis(1). Sự khác biệt đáng chú ý đó là lời nguyện của Thánh Francis được hướng ra bên ngoài đến “Đức chúa trời” trong khi lời nguyện của Phật giáo được hướng vào bên trong đến “Đấng/Cái Chân như của thọ mạng và ánh sáng”.

Sự khác biệt này phản ánh điểm nhấn mạnh của Đức Phật trên sự vô ngã, bản chất hỗ tương của mọi thực thể, bao gồm ảo giác về một cái ngã độc lập, tự chủ, quyền năng mà nó tách biệt với những kẻ khác và phần còn lại của hiện hữu. Đức Phật nội tại hóa hơn là ngoại hóa căn nguyên của mọi hiện hữu, dù cái đó được gọi là gì, là Thượng đế, Yahweh, Allah, Ý thức vũ trụ, Không tính, Nhất Thể... hay nói một cách đơn giản là Sự Huyền bí không thể trắc lượng.

Sự trích dẫn tiếp theo đây từ ngài Dalai Lama: “Hầu hết các lời cầu nguyện chúng ta tụng đọc đều chứa đựng ý nghĩa cần được phản chiếu... Có một loại tán tụng mà nó được thực hiện để khấn nguyện lòng từ bi của Đức Phật, nhưng sự khác nhau giữa sự khấn nguyện ấy với cầu nguyện một vị chúa trời được xác định bởi động lực và sự nhận thức những gì người ta đang làm. Bất kỳ khi nào một Phật tử đại thừa lễ bái hay cầu nguyện Đức Phật hoặc Bồ-tát, thì đó là lúc vị ấy cầu xin sự hộ trì từ những đức tính thánh thiện nội tại của họ để đạt được giác ngộ ngõ hầu đem đến lợi ích cho hết thảy sinh linh”.

Và đây là một đoạn trích từ Daisaku Ikeda, chủ tịch Quốc tế Sáng giá Học hội (Soka Gakkai International - SGI) và là người đứng đầu truyền thống Phật giáo Nhật Liên tông, một truyền thống thực hành tụng đọc như một hình thức chính của thiền thay vì tịnh tọa:

“Những lời kinh nguyện là một thực thể cụ thể trong cuộc sống của chúng ta. Cầu nguyện là đối thoại, là trao đổi với vũ trụ. Khi chúng ta cầu nguyện là khi chúng ta ôm lấy vũ trụ bằng đời sốngquyết tâm của chúng ta. Cầu nguyện là một cuộc tranh đấu để trải rộng cuộc đời của chúng ta.

Cầu nguyện không thuộc lãnh địa của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. Cầu nguyện là một hành vi trong đó chúng ta biểu lộ những ước muốn khẩn thiết và mãnh liệt tự trong sâu thẳm của chúng tamong ước chúng được thành tựu”.

“Niềm tin của chúng ta được phản ánh trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, trong môi trường thực tế. Những lời cầu nguyện của chúng ta không thể được đáp lại nếu chúng ta không nỗ lực thích đáng với hoàn cảnh”.

Ngoài ra tôi cũng muốn lấy thêm một trích dẫn từ Deborah Guthrie, một hành giả sở tại của truyền thống này. Bà ấy nói, “cầu nguyện trong Phật giáo Nhật Liên tông là sự thực hành tụng đọc. Những lời kinh cầu có thể là những lời thỉnh cầu một thứ gì đó cụ thể, chẳng hạn đó là sự bảo hộ tài chính; hoặc trừu tượng, như hạnh phúc; thế nhưng sự cầu nguyện được xem như một sự chú tâm hay kiên quyết hơn là một sự cầu xin. Những lời cầu nguyện được tụng lên với sự hiểu biết rằng những phước lợi đó sẽ giúp họ tiến bước trên con đường hướng đến sự giác ngộ, để họ có khả năng giúp đỡ những kẻ khác cùng tiến bước trên con đường đạo. Những lợi ích tinh thần được xem là cái quan trọng nhất trong quá trình này, chứ không phải những lợi ích vật chất, chẳng hạn đó là sự tăng thêm an lạc, từ bi và trí tuệ”.

Trích dẫn tiếp theo đây từ truyền thống Phật giáo Lamrim của Tây Tạng: “Đức Phật dạy rằng vạn pháp tùy tâm, vì thế, nếu chúng ta muốn xây dựng một thế giới yên bình, trước hết chúng ta phải thiết lập sự yên bình từ trong tâm của chúng ta”.

Tôi trích dẫn lời này bởi vì nó thực sự thích hợp với thời đại hôm nay, một thời đại đang đối diện với những nguy cơ tận diệt do chiến tranh nguyên tử hoặc sự ấm lên của địa cầu. Chúng ta phải có được an lạc nội tại trước khi có được an lạc từ bên ngoài.

Và đây là một đoạn trích từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong cuốn “Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời”, trong phần ông gọi là “Lời nguyện cầu cụ thể”:

“Sơ tâm, từ bi tâm, bồ đề tâm là những yếu tố tối cần thiết đối với vị hành giả Phật giáo. Người Phật tử luôn luôn tuân thủ (ít nhất) năm học giới (không giết hại, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, và không dùng chất gây say độc hại). Những học giới này thể hiện sự hiểu biết và tình yêu thương của vị hành giả. Chúng không phải là những luật tắc bị ép buộc từ bên ngoài mà là sự thực tập cụ thể chánh niệmthiền định. Sự nguyện cầu của con tim không thể có đối với những ai không thọ trì giới cấm. Chẳng hạn, nếu bạn không giữ giới “không giết hại”, làm sao có thể “bạn sẽ yêu thương thượng đế của bạn”?

Chúng ta hãy cùng đọc một bài thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh mà nó có thể được xem như một sự thực tập thiền định hay nguyện cầu và phản ánh thơ mộng sự hòa hợp của vạn pháp đang hiện hữu. Thiền sư viết bài thơ này năm 1976 khi ông hay tin một cô gái 12 tuổi, một trong số rất nhiều thuyền nhân vượt biên, đã trầm mình vào lòng đại dương sau khi bị một tên cướp biển hãm hiếp. Sau mấy tiếng đồng hồ thiền quán, ông nhận thấy “tôi không thể hùa theo mọi người để kết án tên cướp. Tôi nhận thấy rằng nếu tôi phải sinh ra trong ngôi làng của hắn và lớn lên trong hoàn cảnh tương tự, tôi có thể trở thành như chính hắn”. Bài thơ đã tuôn chảy theo niềm đau khổ ấy:

Hãy gọi đúng tên tôi
đừng bảo ngày mai tôi đã ra đi
bởi vì chính hôm nay tôi vẫn còn đang tới
hãy ngắm tôi thoát hình trong từng phút từng giây
làm đọt lá trên cành xuân
làm con chim non cánh mềm
chiêm chiếp vui mừng trong tổ mới
làm con sâu xanh trên cuống hoa hồng
làm gân viên ngọc trắng tượng hình trong lòng đá.
tôi còn tới để khóc để cười để ước mong để lo sợ
sự xuất nhập của tôi là hơi thở
nhịp sinh diệt của tôi
cũng là tiếng đập một lần
của hàng triệu trái tim
tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước
và là con chim sơn ca mùa xuân về
trên sông đón bắt phù du
tôi là con ếch bơi trong hồ thu
và cũng là con rắn nước trườn đi
tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái
tôi là em bé nghèo Uganda,
bao nhiêu xương sườn đều lộ ra,
hai bàn chân bằng hai ống sậy
tôi cũng là người chế tạo bom đạn
để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi.
tôi là em bé mười hai, bị làm nhục nhảy xuống biển sâu
tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim chưa biết nhìn biết cảm
tôi là người đảng viên cao cấp cầm quyền sinh sát trong tay
và cũng là kẻ bị coi là có nợ máu nhân dân
đang chết dần mòn trong trại tập trung cải tạo.
nỗi vui của tôi thanh thoát như trời Xuân, ấm áp cỏ hoa muôn lối
niềm đau của tôi đọng thành nước mắt, ngập về bốn đại dương sâu.
hãy nhớ gọi đúng tên tôi
cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng tôi khóc tôi cười
cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một
hãy nhớ gọi đúng tên tôi
cho tôi giật mình tỉnh thức
và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ
cánh cửa xót thương.

Đây là một bài thơ hay và cũng là một bài tập thiền quán phản ánh tính đồng nhất và lòng từ bi. Giờ đây tôi muốn có một vài sự quán sát của bản thân. Từ trước đến giờ tôi đã nói về những lời cầu nguyện và thiền mà chúng nhấn mạnh việc sử dụng quá trình suy tư và nhận thức của chúng ta để phát triển trí tuệtừ bi. Thực tế, phương pháp thiền hay cầu nguyệnĐức Phật thường đề cập đến và kỹ thuật mà chính Ngài đã sử dụng để được giác ngộphương pháp thiền tọa để giảm thiểuvượt qua quá trình nhận thứctư duy.

Thực hành phương pháp này, hành giả phải ngồi yên tĩnh, chú tâm vào hơi thở hoặc một lời nói được lặp đi lặp lại, hoặc chú tâm vào một âm thanh hay hình ảnh tưởng tượng. Và cứ như thế kéo tâm trở lại trên hơi thở hay đối tượng đã được chọn mỗi khi bị xao lãng do những âm thanh, sự xúc chạm, hay những ý tưởng, cảm giáchình ảnh khởi lên một cách tự nhiên trong thức.

Thông qua việc thực tập thường xuyên phương pháp chú tâm vào hơi thở và điều tâm để trừ bỏ những tư tưởngcảm giác không như ý, hành giả dần dần tu bồi trí tuệtừ bi của mình. Nó dẫn đến một sự tỉnh giáctừ bỏ những tư tưởng phân biệt, trù tính để rồi hành giả chiêm nghiệm được sự an lạc, vắng lặng và bình yên - những phẩm chất vốn tiềm tại trong tâm và vượt lên trên sự thấy biết.

Tôi nhớ một câu chuyện về mẹ Teresa, một phóng viên hỏi rằng bà đã nói gì khi cầu nguyện Chúa. Bà trả lời: “Tôi chẳng nói gì cả, chỉ lắng nghe thôi”. Và tiếp đó khi vị phóng viên hỏi, “Vậy Chúa nói với mẹ điều gì khi mẹ cầu nguyện”, bà trả lời, “Chúa không nói gì cả, Ngài cũng chỉ lắng nghe thôi”.

Thể nghiệm sự tĩnh lặng và vượt lên trên những suy tư, dù được hoàn thiện bằng cách nào đi nữa, có lẽ là mục đích chung cao nhất và là mẫu số chung cho tất cả sự cầu nguyện, hành thiền, và trầm tư trong tất cả các tôn giáo. Và tọa thiền là một phương pháp kỳ diệu ngày này đã được xác nhận bởi sự nghiên cứu khoa học thuộc các ngành tâm sinh lýthần kinh học trong nửa thế kỷ qua. Nó tạo điều kiện cho sự trưởng thành tâm lýtâm linh, sự đổi thay và chuyển hóa nội tâm, và sau cùng là thể nghiệm cái mà Thiên Chúa gọi là “hợp nhất với Chúa”, Phật giáo gọi là giác ngộ, và cái mà tôi diễn tả như là kinh nghiệm siêu việt về “cái nhất không đối đãi” hoặc “sự tỉnh giác trống không”.

Bên cạnh đó, có nhiều phương pháp thiền và cầu nguyện Phật giáo sử dụng quá trình nhận thức để tạo điều kiện cho sự phát triển tâm linh. Chúng bao gồm các thiền tu tập bốn phẩm tính thiêng liêng đã nói ở trước: từ, bi, hỷ và xả. Loại thiền này chú trọng sự lặp đi lặp lại những câu như: “Mong cho tôi được khỏe mạnh, mong cho tôi được an lành, mong cho tôi được an lạc, và mong cho tôi được yên tịnh”. Những câu đó trước hết được hướng đến bản thân, sau đó được hướng đến người thân, rồi những người xa lạ, kẻ thù, và tất cả chúng sinh.

Mặc dù các phương pháp thiền như thế có vẻ giống như những lời kinh cầu nguyện ở trong Thiên Chúa giáo, thế nhưng chúng khác biệt nhau ở chỗ mục đích của chúng là để phát triển bản thân nội tại và nhận ra những phẩm tính từ, bi, hỷ, xả vốn có ở nơi những người khác; đồng thời tu tập những phẩm đức này để vượt qua cái ảo giác cách biệt giữa bản thân với những người khác và để thể nghiệm thật tính tương quan giữa mọi chúng sinh và các pháp, giữa các hiện tượng thuộc tâm và sắc.

Những lời ca tụng tán dương cũng có ở trong Phật giáo, tuy nhiên chúng chỉ là thể hiện sự nhận thức mối dung thông tương nhiếp của các pháp cũng như sự cảm nghiệm sâu xa về lòng tri ân. Trong Thiên Chúa giáo, kinh nghiệm đó thường được cho là lòng tri ân đối với Chúa, trong khi đối với người Phật tử, đó đơn giản chỉ là một kinh nghiệm tri ân không có chủ thể bản ngã. Khi người Phật tử thể hiện lòng tri ân, họ chỉ thể hiện lòng biết ơn cuộc sống và những điều huyền bí của cuộc sống như nó biểu lộ nơi chính bản thân họ hơn là cảm ơn đối với những cá thể ngoại tại.

Có thể, lời nguyện thực hành Bồ tát đạo mô tả đúng nhất sự định hướng mục đích cho những phương pháp thiền, tụng niệm, cầu nguyện và những pháp tu tâm khác trong Phật giáo, kể cả việc những Phật tử nỗ lực như thế nào cho cuộc sống thường nhật. Bồ tát nguyện là một lời nguyện thương yêu hết thảy chúng sinh, nó được phản ánh ở trong bài kệ sau:

Nguyện tôi được giác ngộ
Vì lợi ích chúng sinh
Nguyện hết thảy mọi loài
Được hoàn thành chánh giác
Công đức này có được
Hồi hướng khắp mọi loài
Được thoát khổ lìa mê
Cùng nhau sống an lạc.

Charles Day - THANH HÒA dịch

(1) Francis of Assisi (Giovanni Francesco Bernardone; born 1181/1182 - October 3, 1226) [2] was a friar and the founder of the Order of Friars Minor, more commonly known as the Franciscans.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3158)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3654)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3262)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3335)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2933)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3409)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3751)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3579)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3578)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2908)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3570)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3090)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3605)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3404)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3401)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3834)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3903)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3281)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3619)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3315)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3146)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3181)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4584)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3556)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3108)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4451)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3364)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3961)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4518)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3786)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3260)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3515)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3089)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3294)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3781)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3763)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3326)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3210)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3191)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3120)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3551)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3379)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3373)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3454)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3937)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3405)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3758)
Thật là một thảm họa khi tôi dự khóa tu thiền lần đầu tiên. Lưng tôi yếu sau nhiều năm ngồi gù lưng trước máy tính và ...
(Xem: 3429)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3478)
Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian,
(Xem: 4431)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant