Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cầu Nguyện Trong Phật Giáo

15 Tháng Hai 202219:01(Xem: 2968)
Cầu Nguyện Trong Phật Giáo
Cầu Nguyện Trong Phật Giáo

Thích Thanh Hòa

Có Vinh Thì Có Nhục

Cầu nguyện không thuộc lãnh địa của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. Cầu nguyện là một hành vi trong đó chúng ta biểu lộ những ước muốn khẩn thiết và mãnh liệt tự trong sâu thẳm của chúng tamong ước chúng được thành tựu”. Đức Phật nhấn mạnh rằng, để nhận ra tính linh thánh của chúng ta - tức Phật tánh hay giác tánh - chúng ta phải tìm từ bên trong, không phải từ bên ngoài.

Có nhiều truyền thốngbộ phái trong Phật giáo, cũng giống như có nhiều giáo phái ở trong các tôn giáo khác. Những truyền thống Phật giáo khác nhau có những lễ nghi, pháp tu khác nhau nhưng chúng đều có chung một giáo lý căn bản của Đức Phật, giáo lý ấy được tóm tắt ở trong Tứ đếBát chánh đạo. Ở đây chúng ta không thảo luận về nội dung giáo lý ấy mà chỉ bàn đến vai trò của cầu nguyện trong Phật giáo.

Trong khi bàn đến nội dung đó, chúng tôi muốn chia sẻ một số trích dẫn từ những truyền thống Phật giáo và những đạo sư khác nhau, tiếp đó sẽ trình bày một số những nhận định của bản thân. Nên nhớ trong Phật giáo, từ “thiền” được dùng thường xuyên hơn từ “(cầu) nguyện”, nhưng cả hai từ đều được dùng để chỉ một phương pháp tu tập bản thân, mặc dù có những sự khác biệt trong mục đích và cấu trúc. Điều này sẽ được giải thích ở đoạn sau.

Trước hết chúng ta hãy trích lời của nhà sư Tây Tạng Yongey Mingyur Rinpoche từ cuốn sách The Joy of Living (Niềm Vui Sống) của ông.

“Không cần biết bạn thiền bao lâu, hay bạn đang sử dụng phương pháp nào, mọi pháp thiền Phật giáo sau rốt sẽ phát khởi tâm từ bi, dù bạn có nhận thức được nó hay không. Bất kỳ lúc nào nhìn vào tâm mình, bạn phải nhận thấy được sự giống nhau giữa bạn với những người xung quanh. Khi biết rằng bạn muốn được hạnh phúc, bạn không thể không nhìn nhận ước muốn tương tự nơi những người khác; và khi thấy rõ nỗi lo sợ, giận dữ hay ghen ghét nơi bạn, bạn không thể không thấy rằng mọi người xung quanh cũng có cảm giác lo sợ, giận dữ hay ghen ghét tương tự. Khi bạn quán chiếu tâm mình, tất cả những sai biệt ảo tưởng giữa bản thân bạn với những người khác sẽ tự động tan biến; và khi ấy lời nguyện cầu kinh điển về Tứ vô lượng tâm trở nên tự nhiên và miên mật như nhịp đập của con tim:

Nguyện cầu hết thảy chúng sinh được hạnh phúc và đầy đủ nhân duyên của hạnh phúc. (Từ)
Nguyện cầu hết thảy chúng sinh thoát khỏi khổ não và những nguyên nhân đưa đến khổ não. (Bi)
Nguyện cầu hết thảy chúng sinh luôn sống trong yên vui không có khổ đau. (Hỷ)
Nguyện cầu hết thảy chúng sinh xa lìa tất cả chấp trước, oán ghét, an trú trong tịch tịnh. (Xả)

Tiếp theo là trích dẫn từ cuốn Prayer in Buddhism (Cầu nguyện trong Phật giáo) của G.R. Lewis, một người theo Tịnh độ Chân tông Nhật Bản.

“Sự cầu nguyện trong Phật giáo là một phương pháp để thức tỉnh những năng lực bi, trí, dũng vốn tiềm ẩn trong chúng ta hơn là thỉnh cầu những năng lực bên ngoài nhờ vào sự kính sợ, sùng tínlợi lộc thế gian hay thần thánh nào. Cầu nguyện của Phật giáo là một hình thức thiền, đó là một phương pháp tu chỉnh nội tâm. Cầu nguyện Phật giáo thay thế cái tiêu cực bởi cái đức hạnh, và hướng chúng ta đến những cái tốt đẹp của đời sống”.

Lewis đưa ra ví dụ Lời Cầu Nguyện Từ Bi (The Prayer of Metta-karuna) sau đây được lấy từ ngài Tịch Thiên, một đại đạo sư Phật giáo Ấn độ thế kỷ thứ VIII:

Đấng Chân như của Thọ mạngQuang minh
Xin dâng trọn niềm tin nơi Đại bi của Ngài
Mong ngài trừ bỏ sự ngu muội nơi thân con
Biến con thành suối nguồn yêu thương.
Con nguyện làm lương dược cho những ai đang bệnh ốm
Chăm sóc họ cho đến khi những đau đớn được chữa lành
Con nguyện làm thực phẩm trong mùa đói khát
Bảo hộ cho những người nghèo khổ đơn côi
Con nguyện làm đèn sáng cho người trong đêm tối
Nguyện làm nhà cho mọi người nghỉ ngơi
dẫn đường cho kẻ tìm lối qua bờ bên ấy
Con nguyện cho mọi người được yên vui
Và không ai còn khổ đau bởi vì con
Mặc cho họ có ghét bỏ hay thương yêu
Có đánh đập hay trách móc con nhiều
Nguyện tất cả đều thấy được niềm tin rất chân thành”.

Có sự sóng đôi giữa lời nguyện Phật giáo này với lời nguyện của Thánh Francis(1). Sự khác biệt đáng chú ý đó là lời nguyện của Thánh Francis được hướng ra bên ngoài đến “Đức chúa trời” trong khi lời nguyện của Phật giáo được hướng vào bên trong đến “Đấng/Cái Chân như của thọ mạng và ánh sáng”.

Sự khác biệt này phản ánh điểm nhấn mạnh của Đức Phật trên sự vô ngã, bản chất hỗ tương của mọi thực thể, bao gồm ảo giác về một cái ngã độc lập, tự chủ, quyền năng mà nó tách biệt với những kẻ khác và phần còn lại của hiện hữu. Đức Phật nội tại hóa hơn là ngoại hóa căn nguyên của mọi hiện hữu, dù cái đó được gọi là gì, là Thượng đế, Yahweh, Allah, Ý thức vũ trụ, Không tính, Nhất Thể... hay nói một cách đơn giản là Sự Huyền bí không thể trắc lượng.

Sự trích dẫn tiếp theo đây từ ngài Dalai Lama: “Hầu hết các lời cầu nguyện chúng ta tụng đọc đều chứa đựng ý nghĩa cần được phản chiếu... Có một loại tán tụng mà nó được thực hiện để khấn nguyện lòng từ bi của Đức Phật, nhưng sự khác nhau giữa sự khấn nguyện ấy với cầu nguyện một vị chúa trời được xác định bởi động lực và sự nhận thức những gì người ta đang làm. Bất kỳ khi nào một Phật tử đại thừa lễ bái hay cầu nguyện Đức Phật hoặc Bồ-tát, thì đó là lúc vị ấy cầu xin sự hộ trì từ những đức tính thánh thiện nội tại của họ để đạt được giác ngộ ngõ hầu đem đến lợi ích cho hết thảy sinh linh”.

Và đây là một đoạn trích từ Daisaku Ikeda, chủ tịch Quốc tế Sáng giá Học hội (Soka Gakkai International - SGI) và là người đứng đầu truyền thống Phật giáo Nhật Liên tông, một truyền thống thực hành tụng đọc như một hình thức chính của thiền thay vì tịnh tọa:

“Những lời kinh nguyện là một thực thể cụ thể trong cuộc sống của chúng ta. Cầu nguyện là đối thoại, là trao đổi với vũ trụ. Khi chúng ta cầu nguyện là khi chúng ta ôm lấy vũ trụ bằng đời sốngquyết tâm của chúng ta. Cầu nguyện là một cuộc tranh đấu để trải rộng cuộc đời của chúng ta.

Cầu nguyện không thuộc lãnh địa của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. Cầu nguyện là một hành vi trong đó chúng ta biểu lộ những ước muốn khẩn thiết và mãnh liệt tự trong sâu thẳm của chúng tamong ước chúng được thành tựu”.

“Niềm tin của chúng ta được phản ánh trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, trong môi trường thực tế. Những lời cầu nguyện của chúng ta không thể được đáp lại nếu chúng ta không nỗ lực thích đáng với hoàn cảnh”.

Ngoài ra tôi cũng muốn lấy thêm một trích dẫn từ Deborah Guthrie, một hành giả sở tại của truyền thống này. Bà ấy nói, “cầu nguyện trong Phật giáo Nhật Liên tông là sự thực hành tụng đọc. Những lời kinh cầu có thể là những lời thỉnh cầu một thứ gì đó cụ thể, chẳng hạn đó là sự bảo hộ tài chính; hoặc trừu tượng, như hạnh phúc; thế nhưng sự cầu nguyện được xem như một sự chú tâm hay kiên quyết hơn là một sự cầu xin. Những lời cầu nguyện được tụng lên với sự hiểu biết rằng những phước lợi đó sẽ giúp họ tiến bước trên con đường hướng đến sự giác ngộ, để họ có khả năng giúp đỡ những kẻ khác cùng tiến bước trên con đường đạo. Những lợi ích tinh thần được xem là cái quan trọng nhất trong quá trình này, chứ không phải những lợi ích vật chất, chẳng hạn đó là sự tăng thêm an lạc, từ bi và trí tuệ”.

Trích dẫn tiếp theo đây từ truyền thống Phật giáo Lamrim của Tây Tạng: “Đức Phật dạy rằng vạn pháp tùy tâm, vì thế, nếu chúng ta muốn xây dựng một thế giới yên bình, trước hết chúng ta phải thiết lập sự yên bình từ trong tâm của chúng ta”.

Tôi trích dẫn lời này bởi vì nó thực sự thích hợp với thời đại hôm nay, một thời đại đang đối diện với những nguy cơ tận diệt do chiến tranh nguyên tử hoặc sự ấm lên của địa cầu. Chúng ta phải có được an lạc nội tại trước khi có được an lạc từ bên ngoài.

Và đây là một đoạn trích từ Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong cuốn “Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời”, trong phần ông gọi là “Lời nguyện cầu cụ thể”:

“Sơ tâm, từ bi tâm, bồ đề tâm là những yếu tố tối cần thiết đối với vị hành giả Phật giáo. Người Phật tử luôn luôn tuân thủ (ít nhất) năm học giới (không giết hại, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, và không dùng chất gây say độc hại). Những học giới này thể hiện sự hiểu biết và tình yêu thương của vị hành giả. Chúng không phải là những luật tắc bị ép buộc từ bên ngoài mà là sự thực tập cụ thể chánh niệmthiền định. Sự nguyện cầu của con tim không thể có đối với những ai không thọ trì giới cấm. Chẳng hạn, nếu bạn không giữ giới “không giết hại”, làm sao có thể “bạn sẽ yêu thương thượng đế của bạn”?

Chúng ta hãy cùng đọc một bài thơ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh mà nó có thể được xem như một sự thực tập thiền định hay nguyện cầu và phản ánh thơ mộng sự hòa hợp của vạn pháp đang hiện hữu. Thiền sư viết bài thơ này năm 1976 khi ông hay tin một cô gái 12 tuổi, một trong số rất nhiều thuyền nhân vượt biên, đã trầm mình vào lòng đại dương sau khi bị một tên cướp biển hãm hiếp. Sau mấy tiếng đồng hồ thiền quán, ông nhận thấy “tôi không thể hùa theo mọi người để kết án tên cướp. Tôi nhận thấy rằng nếu tôi phải sinh ra trong ngôi làng của hắn và lớn lên trong hoàn cảnh tương tự, tôi có thể trở thành như chính hắn”. Bài thơ đã tuôn chảy theo niềm đau khổ ấy:

Hãy gọi đúng tên tôi
đừng bảo ngày mai tôi đã ra đi
bởi vì chính hôm nay tôi vẫn còn đang tới
hãy ngắm tôi thoát hình trong từng phút từng giây
làm đọt lá trên cành xuân
làm con chim non cánh mềm
chiêm chiếp vui mừng trong tổ mới
làm con sâu xanh trên cuống hoa hồng
làm gân viên ngọc trắng tượng hình trong lòng đá.
tôi còn tới để khóc để cười để ước mong để lo sợ
sự xuất nhập của tôi là hơi thở
nhịp sinh diệt của tôi
cũng là tiếng đập một lần
của hàng triệu trái tim
tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước
và là con chim sơn ca mùa xuân về
trên sông đón bắt phù du
tôi là con ếch bơi trong hồ thu
và cũng là con rắn nước trườn đi
tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái
tôi là em bé nghèo Uganda,
bao nhiêu xương sườn đều lộ ra,
hai bàn chân bằng hai ống sậy
tôi cũng là người chế tạo bom đạn
để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi.
tôi là em bé mười hai, bị làm nhục nhảy xuống biển sâu
tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim chưa biết nhìn biết cảm
tôi là người đảng viên cao cấp cầm quyền sinh sát trong tay
và cũng là kẻ bị coi là có nợ máu nhân dân
đang chết dần mòn trong trại tập trung cải tạo.
nỗi vui của tôi thanh thoát như trời Xuân, ấm áp cỏ hoa muôn lối
niềm đau của tôi đọng thành nước mắt, ngập về bốn đại dương sâu.
hãy nhớ gọi đúng tên tôi
cho tôi được nghe một lần tất cả những tiếng tôi khóc tôi cười
cho tôi thấy được nỗi đau và niềm vui là một
hãy nhớ gọi đúng tên tôi
cho tôi giật mình tỉnh thức
và để cho cánh cửa lòng tôi để ngỏ
cánh cửa xót thương.

Đây là một bài thơ hay và cũng là một bài tập thiền quán phản ánh tính đồng nhất và lòng từ bi. Giờ đây tôi muốn có một vài sự quán sát của bản thân. Từ trước đến giờ tôi đã nói về những lời cầu nguyện và thiền mà chúng nhấn mạnh việc sử dụng quá trình suy tư và nhận thức của chúng ta để phát triển trí tuệtừ bi. Thực tế, phương pháp thiền hay cầu nguyệnĐức Phật thường đề cập đến và kỹ thuật mà chính Ngài đã sử dụng để được giác ngộphương pháp thiền tọa để giảm thiểuvượt qua quá trình nhận thứctư duy.

Thực hành phương pháp này, hành giả phải ngồi yên tĩnh, chú tâm vào hơi thở hoặc một lời nói được lặp đi lặp lại, hoặc chú tâm vào một âm thanh hay hình ảnh tưởng tượng. Và cứ như thế kéo tâm trở lại trên hơi thở hay đối tượng đã được chọn mỗi khi bị xao lãng do những âm thanh, sự xúc chạm, hay những ý tưởng, cảm giáchình ảnh khởi lên một cách tự nhiên trong thức.

Thông qua việc thực tập thường xuyên phương pháp chú tâm vào hơi thở và điều tâm để trừ bỏ những tư tưởngcảm giác không như ý, hành giả dần dần tu bồi trí tuệtừ bi của mình. Nó dẫn đến một sự tỉnh giáctừ bỏ những tư tưởng phân biệt, trù tính để rồi hành giả chiêm nghiệm được sự an lạc, vắng lặng và bình yên - những phẩm chất vốn tiềm tại trong tâm và vượt lên trên sự thấy biết.

Tôi nhớ một câu chuyện về mẹ Teresa, một phóng viên hỏi rằng bà đã nói gì khi cầu nguyện Chúa. Bà trả lời: “Tôi chẳng nói gì cả, chỉ lắng nghe thôi”. Và tiếp đó khi vị phóng viên hỏi, “Vậy Chúa nói với mẹ điều gì khi mẹ cầu nguyện”, bà trả lời, “Chúa không nói gì cả, Ngài cũng chỉ lắng nghe thôi”.

Thể nghiệm sự tĩnh lặng và vượt lên trên những suy tư, dù được hoàn thiện bằng cách nào đi nữa, có lẽ là mục đích chung cao nhất và là mẫu số chung cho tất cả sự cầu nguyện, hành thiền, và trầm tư trong tất cả các tôn giáo. Và tọa thiền là một phương pháp kỳ diệu ngày này đã được xác nhận bởi sự nghiên cứu khoa học thuộc các ngành tâm sinh lýthần kinh học trong nửa thế kỷ qua. Nó tạo điều kiện cho sự trưởng thành tâm lýtâm linh, sự đổi thay và chuyển hóa nội tâm, và sau cùng là thể nghiệm cái mà Thiên Chúa gọi là “hợp nhất với Chúa”, Phật giáo gọi là giác ngộ, và cái mà tôi diễn tả như là kinh nghiệm siêu việt về “cái nhất không đối đãi” hoặc “sự tỉnh giác trống không”.

Bên cạnh đó, có nhiều phương pháp thiền và cầu nguyện Phật giáo sử dụng quá trình nhận thức để tạo điều kiện cho sự phát triển tâm linh. Chúng bao gồm các thiền tu tập bốn phẩm tính thiêng liêng đã nói ở trước: từ, bi, hỷ và xả. Loại thiền này chú trọng sự lặp đi lặp lại những câu như: “Mong cho tôi được khỏe mạnh, mong cho tôi được an lành, mong cho tôi được an lạc, và mong cho tôi được yên tịnh”. Những câu đó trước hết được hướng đến bản thân, sau đó được hướng đến người thân, rồi những người xa lạ, kẻ thù, và tất cả chúng sinh.

Mặc dù các phương pháp thiền như thế có vẻ giống như những lời kinh cầu nguyện ở trong Thiên Chúa giáo, thế nhưng chúng khác biệt nhau ở chỗ mục đích của chúng là để phát triển bản thân nội tại và nhận ra những phẩm tính từ, bi, hỷ, xả vốn có ở nơi những người khác; đồng thời tu tập những phẩm đức này để vượt qua cái ảo giác cách biệt giữa bản thân với những người khác và để thể nghiệm thật tính tương quan giữa mọi chúng sinh và các pháp, giữa các hiện tượng thuộc tâm và sắc.

Những lời ca tụng tán dương cũng có ở trong Phật giáo, tuy nhiên chúng chỉ là thể hiện sự nhận thức mối dung thông tương nhiếp của các pháp cũng như sự cảm nghiệm sâu xa về lòng tri ân. Trong Thiên Chúa giáo, kinh nghiệm đó thường được cho là lòng tri ân đối với Chúa, trong khi đối với người Phật tử, đó đơn giản chỉ là một kinh nghiệm tri ân không có chủ thể bản ngã. Khi người Phật tử thể hiện lòng tri ân, họ chỉ thể hiện lòng biết ơn cuộc sống và những điều huyền bí của cuộc sống như nó biểu lộ nơi chính bản thân họ hơn là cảm ơn đối với những cá thể ngoại tại.

Có thể, lời nguyện thực hành Bồ tát đạo mô tả đúng nhất sự định hướng mục đích cho những phương pháp thiền, tụng niệm, cầu nguyện và những pháp tu tâm khác trong Phật giáo, kể cả việc những Phật tử nỗ lực như thế nào cho cuộc sống thường nhật. Bồ tát nguyện là một lời nguyện thương yêu hết thảy chúng sinh, nó được phản ánh ở trong bài kệ sau:

Nguyện tôi được giác ngộ
Vì lợi ích chúng sinh
Nguyện hết thảy mọi loài
Được hoàn thành chánh giác
Công đức này có được
Hồi hướng khắp mọi loài
Được thoát khổ lìa mê
Cùng nhau sống an lạc.

Charles Day - THANH HÒA dịch

(1) Francis of Assisi (Giovanni Francesco Bernardone; born 1181/1182 - October 3, 1226) [2] was a friar and the founder of the Order of Friars Minor, more commonly known as the Franciscans.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15395)
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào.
(Xem: 13844)
Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, tôi không thể nói rằng tôi không có trách nhiệm gì đối với những khổ đau, bất ưng, nghịch lý, bất công, hiểm nguy đang xảy ra chung quanh tôi.
(Xem: 13710)
Nỗi thất vọng lớn nhất của con người là chạy bươn về phía trước hay chạy ngược về phía sau để kiếm tìm cho mình một bản ngã. Bản ngã trong cơm áo, gạo tiền, trong kiến thức chữ nghĩa...
(Xem: 13212)
Ta làm và nói sai, nhưng ta lại được nhiều người khen ngợi mỗi ngày, như vậy mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày đưa đời sống của ta đi dần vào bóng đêm và từ bóng đêm này dẫn ta đi tới bóng đêm khác.
(Xem: 14077)
Có một phạm nhân trong thời gian cải tạo khi đang tu sửa lại đường đi, anh ta nhặt được 2 triệu đồng, anh ta không mảy may suy nghĩ liền mang số tiền này đến chỗ cảnh sát.
(Xem: 13739)
Con bé không chú ý đến câu hỏi của tôi, đang bận bịu thổi kẹo thành quả bong bóng nhỏ. Có lúc nó thổi không khéo, quả bóng vỡ gây một tiếng bụp nhẹ, để lại chất kẹo nằm vắt ngang đôi môi mọng đỏ.
(Xem: 13837)
Mùa đông năm ấy tuyết không rơi nhiều, nhưng cái lạnh vẫn theo sương khói ùa về làm xác xơ thêm cho khu rừng mới trải qua một mùa dông bão kéo dài trước đó.
(Xem: 14755)
Thuở xưa, có anh chàng đọc kinh nghe nói về Phật, thích lắm, quyết định đi tìm gặp Ngài bằng được. Anh chàng khăn gói quả mướp ra đi. Sau khi trải qua không biết cơ man nào là núi sông, thành phố, hầm hố gian nguy hiểm trở...
(Xem: 12813)
Khi nắng vội vã đổ về trên từng con đường, nhà cửa, phố phường, cây cối, sông ngòi và nắng cũng chan hoà, hong đầy tâm của người con Phật, bằng chất liệu tươi trẻ ấm áp.
(Xem: 13778)
Bà Chín hồi nào đến giờ vẫn vậy, vẫn quạnh quẽ sống mình ên trong cái chòi lá bên một ao sen trắng. Cả làng chỉ biết bà là người xứ khác trôi giạt đến, cách nay đã ba mươi năm.
(Xem: 14776)
Sau khi nói chuyện với cô bé tôi ra về. Wendy nói cô bé rất vui, và đúng là tôi thấy nhẹ nhõm hơn nhiều.
(Xem: 15044)
Từ ngàn xưa, Ấn Ðộ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử...
(Xem: 15104)
Chú Tư nhai với trâu, nhai một hồi thấy đúng là mình đang nhai cỏ; chú vừa nhai cỏ vừa ngước mắt nhìn trời xa xăm...
(Xem: 18012)
Có đôi lúc giữa đêm tôi tự hỏi mình có già cỗi quá không? Và mình đã thu lượm được những gì trên con đường mình đã chọn?
(Xem: 16092)
Khi ra đời, một cây bút chì luôn thắc mắc không biết cuộc sống bên ngoài xưởng làm bút chì sẽ ra sao bởi thỉnh thoảng nó nghe những người thợ làm bút chì nói chuyện với nhau.
(Xem: 15897)
Thủy tiên nhỏ bé, xinh xắn với hương thơm cao sang, cánh hoa trắng muốt, mọc từng chùm trên củ như loại hành tây. Những chiếc lá mịn màng đang vươn mình ra ánh sáng.
(Xem: 17522)
Cứ ngỡ hoa được thả từ đâu đó trên không trung xuống rồi đậu lên hàng rào. Hoa không thành chùm lớn, cách nhau vừa tầm xa, như họa sĩ thiên nhiên...
(Xem: 16646)
Mỗi năm, vào ngày trăng tròn tháng tư, chúng ta cung kính, hân hoan đón nhận Đấng Giác Ngộ ra đời. Đó là Đức Phật lịch sử, Đức Phật đã mang hình người để đến với chúng ta.
(Xem: 15956)
Trong các chùa thuộc Bắc tông, thường treo bức tranh một hành giả dữ tướng, cao to, quắc thước, râu hùm, hàm én, mắt lóe kỳ quang, mình vận cà sa, vai quảy một chiếc dép...
(Xem: 13500)
Cơn nắng giao mùa đã bắt đầu rực sáng; những tàng lá non xanh đã trở nên đậm sắc hơn; những cây phượng hồng vẫn còn nở rực; đằng xa trong vườn nhà ai...
(Xem: 14280)
Một chàng trai bị lạc giữa sa mạc rộng lớn. Anh mệt lả và khát khô cổ, sẵn sàng đánh đổi bất cứ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát.
(Xem: 12551)
Thuyết pháp độ sinh suốt 49 năm, bỗng một ngày nhìn lại, thấy mình chưa nói một lời. Bất thuyết thị Phật thuyết! Chung thân ngôn, vị thường ngôn!
(Xem: 13061)
Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình anhạnh phúc...
(Xem: 16712)
Một người thanh niên đang ngồi trên một tảng đá gần nhà vào một ngày nọ. Một nhóm những người thông tuệ từ ngôi làng của anh ta đi ngang qua...
(Xem: 28918)
Một con cá nhỏ bơi lội tung tăng, thả nổi và ngoi lên mặt nước ngắm bầu trời xanh. Một lượn sóng ùa tới, nó đùa giỡn ngụp lặn với sóng...
(Xem: 19468)
Có một vị nam cư sĩ mỗi ngày thường hái hoa tươi trong vườn nhà mình đem đến chùa chí thành dâng cúng Phật. Một hôm, khi đem hoa đến điện Phật...
(Xem: 15069)
Con tin có Phật trên đời Phật luôn hiện hữu không rời chúng sanh Nhìn vào sự việc chung quanh Thật là kỳ diệu phải nhanh tu hành
(Xem: 11473)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati)...
(Xem: 13734)
Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa.
(Xem: 13878)
Có một người trung niên sau khi xuất gia trở thành một vị cao tăng, trụ trì một tu viện cách rất xa gia đình. Rất nhiều người ngưỡng mộ danh đức của ngài...
(Xem: 12984)
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi, thuộc vương quốc Kosala.
(Xem: 19941)
Hạnh phúc chân chính liên quan đến tình cảm và trí huệ nhiều hơn. Hạnh phúc lệ thuộc vào lạc thú vật chất không vững bền, nay có mai không.
(Xem: 14973)
Ba chú tiểu dáo dác nhìn bốn bề xao động trong cặp mắt nai ngơ ngác. Dọc theo lề đường, ánh đèn xanh đỏ lập lòe về đêm...
(Xem: 13384)
Bóng con bé chạy dài theo bóng nắng. Thoắt cái nó đã mất hút sau đám ô môi rậm rạp. Vị thầy chỉ đi theo một đoạn. Nhìn những dấu chân nhỏ nhắn...
(Xem: 13954)
Rõ ràng, ở đời không có cái gì là toàn thiện, hoàn mỹ tuyệt đối cả. Được cái này thì mất cái kia là đặc tính chung nhất của vạn sự vạn vật.
(Xem: 12045)
Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được.
(Xem: 14535)
Khi gặp mình mua 1000 đồng, trong bụng bà ấy được vui một chút, đó cũng là cách mình làm phước. Mình đem vui lại cho người khác, mình cũng sẽ được vui lây...
(Xem: 27060)
Ngày nay, tình yêu đã được hằng kho, hằng kho sách vở, báo chí, phim ảnh ca tụng như là một thứ “linh thiêng, thần thánh”, một nguồn hạnh phúc, hoan lạc đẹp nhất của kiếp người.
(Xem: 14199)
Nắng mùa hè ấm áp, giúp cho vườn hoa ở Canada cảnh sắc rực rỡ. Một hồ sen điểm vài cánh hoa hiếm quí tươi nhuần thanh khiết, làm ấm lòng người thưởng ngoạn.
(Xem: 18786)
Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệchấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống.
(Xem: 13859)
Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi Đức Phật và nụ cười tạm biệt của các thiền sư...
(Xem: 15771)
Bạn sẽ làm gì khi cuộc sống trao cho bạn những phiền toái không thể ngờ? Khi những dự tính không theo ý muốn? Bạn có chấp nhận nó...
(Xem: 16478)
Có phải là chúng ta cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi ngày nay dù trên đất Mỹ, con cái chúng ta sống gần gũi trong một tiểu bang...
(Xem: 13823)
Ngày nay những gì chúng ta cần là sự chuyển hóa một cách căn bản trong nhận thức của chúng ta về con người là gì. Chúng ta phải từ bỏ ách nặng...
(Xem: 13568)
Trời đã về khuya. Trăng lên cao sáng vằng vặc trên bầu trời đen thẳm. Triều lẳng lặng bước vào bên trong phòng vẽ chưa đóng cửa...
(Xem: 18374)
Hắn cúp máy rồi, tôi cứ nằm yên đó ngó lên bức tranh mực Tàu trên vách. Ở đó có con thuyền hờ hững trên sông, chẳng biết sắp vào bờ...
(Xem: 12926)
Tịnh thất nằm bên triền núi, quanh năm vắng lặng, ít người lui tới. Cái quang cảnh vắng vẻ heo hút tạo cảm giác rờn rợn khi tôi đặt chân đến.
(Xem: 12577)
Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó được nghỉ làm...
(Xem: 12217)
Đã có người hỏi tôi câu hỏi này mà tôi không trả lời được: "Nói dân tộc Việt Nam có bốn nghìn năm văn hiến. Nhưng có thấy cái gì đâu!"
(Xem: 13424)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant