Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật

25 Tháng Hai 202215:18(Xem: 2637)
Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật
Vài Suy Nghĩ Về Khái Niệm Giải Thoát Sanh Tử Trong Đạo Phật

Thích Hạnh Chơn

giai thoat

Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo. Đó là tìm con đường giải thoát. Khái niệm giải thoát được sử dụng phổ biến trong Phật giáo và hầu như người học Phật nào cũng trả lời tu tập là để giải thoátTuy nhiêngiải thoát cái gì mới là vấn đề cốt yếu. Trong Phật giáo, khái niệm giải thoát sanh tử thường được sử dụng để nói về mục đích cuối cùng của người tu tập Phật pháp. Bài viết sẽ bàn về khái niệm giải thoát sanh tử trong đạo Phật.
 

Giải thoát sanh tử là gì?

Trước hết, khái niệm giải thoát cần được giải thích. Theo các từ điển Phật họcgiải thoát (Sanskrit: morsha, mukti) là cởi bỏ được sự trói buộc của phiền não mà vượt thoát khỏi thế giới mê muội khổ đau; là ra khỏi sự trói buộc trong ba cõi dục, sắc, vô sắc; là dứt tuyệt nguyên nhân sinh tử luân hồi nghiệp báo; là không bị những luyến ái trói buộc cái tâm; là đạt được sự siêu thoát vượt sự trói buộc của thế giới trần tục, khỏi sự chi phối của dục vọng, sống hoàn toàn thanh thoát tự tại; là thoát khỏi ảo tưởng và khổ, thoát khỏi sự tái sinh trong luân hồi và đạt Niết-bàn1. Tóm lạigiải thoát là tâm không bị ràng buộc bởi các phiền não và các duyên trần khác và đạt Niết-bàn.

Hòa thượng Thích Thiện Siêu trình bày giải thoát bao gồm giải thoát hoàn cảnhgiải thoát tâm và giải thoát hoàn toànGiải thoát hoàn cảnh gồm cải tạo hoàn cảnhvật chất cho thật hết sứctốt đẹp và không chú trọng đến hoàn cảnh bên ngoài để không bị ràng buộcGiải thoát tâm tức giải thoát tất cả phiền não ràng buộc làm cho con người đau khổGiải thoát hoàn toàn là không còn bị thời gian và không gian hạn chế, không còn bị tâm lý sinh lý tầm thường chi phốiTrí tuệ thấy rõ các pháp bất nhị nên không bị ràng buộc khi ở thế gian và cũng không phải tìm cách ra khỏi ba cõi2. Như vậy, giải thoát là tâm không bị ràng buộc bởi hoàn cảnh, các phiền não, và ngay cả ý niệm bỉ-thử, sanh tử-Niết bàn.

Theo Tiểu kinh đoạn tận ái (Culatanhasankhayasutta) thuộc kinh Trung bộ (Majjhima Nikaya), một vị được gọi là giác ngộ giải thoát khi vị ấy “sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọkhông chấp trước một vật gì ở đời, không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn.” Vị ấy biết rõ rằng: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.” Giải thoát, theo kinh văn, là ly thamkhông chấp trước, chứng Niết-bàn.

Thế thì, giải thoát cũng được hiểu là Niết-bàn, cũng đồng nghĩa với vô ngã. Niết-bàn nghĩa là dập tắt hết các phiền não dục vọng làm con người bất an khổ nãoVô ngã là không còn chấp vào cái tôi sinh ra tham, sân, si…Niết-bàn có thể xúc chạm được, có thể chứng nghiệm ngay hiện tại chứ không phải đợi đến sau khi chếtVì vậygiải thoát là sự chuyển hóa những phiền nãoxa lìa ngã chấp, thấy rõ thực tại của vạn pháp nên tâm tự tại3.

Từ những giải thích về khái niệm giải thoát ở trên, có thể rút ra một đặc điểm chung của giải thoát là không bị phiền não khổ đau và đạt Niết-bàn. Về khổ đau và sự chấm dứt khổ đau hay đạt Niết-bàn, kinh Chuyển pháp luân(Dhammacakkappavattana sutta) thuộc kinh Tương ưng ghi như sau: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ. Sự chấm dứt khổ là ly thamđoạn diệt ái, không có dư tàn khát ái ấy; là quăng bỏtừ bỏgiải thoát, không có chấp trướcBài kinh kết luậntham ái và tâm chấp trước là nguyên nhân của khổ đau. Từ đó, giải thoát được hiểu là ly tham ái, đoạn tận tham áitâm không còn chấp trước.

Căn cứ vào ý nghĩa của khái niệm giải thoát thì giải thoát sanh tử là sự cụ thể hóa của khái niệm giải thoát. Nói cách khác, khái niệm giải thoát sanh tử là nhấn mạnh đến mục đích của sự tu tập là nhằm đoạn tận ái dụcchấm dứt con đường sanh tử theo nghiệp báo thiện ác.

Trong chương Một pháp, kinh Phật thuyết như vậy (Như thị ngữ/Itivuttaka) thuộc Tiểu bộ (Khuddaka Nikaya), Đức Phật dạy có một pháp đưa đến không còn tái sanh. Đó là hãy từ bỏ tham ái, hãy từ bỏ sân hận, hãy từ bỏ si mê, hãy từ bỏ phẫn nộ, hãy từ bỏ gièm pha, hãy từ bỏ kiêu mạnTừ bỏ một pháp bất thiện là từ bỏ nghiệp nhân đưa đến sanh tử nên không còn tái sanh nữa. Ở đây cũng cần phải hiểu tái sanh là tái sanh theo nghiệp.

Theo Hòa thượng Thanh Từ, giải thoát sanh tử là khi tu thấy được chân tâm, không còn chạy theo vọng tâm lăng xăng, thương ghét…Bởi vì thân tứ đại thì phải sanh diệt, tâm vọng thì luôn thay đổi. Chỉ có chân tâm hằng thanh tịnh. Thấy được chân tâm không còn tạo nghiệp nữa là giải thoát sanh tử, là thoát luân hồi. Nói cách khác, giải thoát sanh tử phải dứt mầm vô minh, tham ái4.

Theo định nghĩa của Tiểu kinh đoạn tận áigiải thoát là chứng đạt Niết-bàn, là đắc quả vị A-la-hán. Vị ấy sanh đã tận…không còn trở lại đời này nữa. Có thể nói một cách dễ hiểu là các vị thánh A-la-hán không còn tạo nghiệp thiện ác do đã chấm dứt tâm tham, sân, si…nên không bị nghiệp dẫn dắt đi tái sanh trong các nẻo luân hồiTuy nhiên, một vấn đề lớn thường được đặt ra là các vị thánh sẽ ở đâu sau khi bỏ thân tứ đạiĐức Phật lấy ví dụ “củi hết lửa tắt”để trả lời. Củi hết là nghiệp hết, lửa tắt là chấm dứt sanh tử. Hết nghiệp là hết sanh tử.

Sau khi giải thoát sanh tử

Phải chăng giải thoát sanh tử là không còn sanh trở lại?! Như vừa trình bày, giải thoát sanh tử là giải thoát nghiệp dẫn đi sanh tử luân hồi khổ đau. Ở đây, cần phân biệt sanh tử luân hồi khổ đau và sanh tử như là một quy luật. Đối với bậc Thánh, tuy thân chịu sanh tử như là một quy luật duyên sanh vật lý nhưng tâm luôn tự tại không bị nghiệp chi phốiTrường hợp sanh tử sau đồng nghĩa với Niết-bàn hữu dư5 của các thánh A-la-hán hay thân thị hiện độ sanh của hàng Bồ-tát. Có thị hiện là có sanh, có sanh thì phải có tử. Sự khác biệt là sự sanh tử của các vị Bồ-tát theo nguyện chứ không theo nghiệp.

Sự sanh tử theo nguyện có thể kể đến là sự thị hiện của Đức Phật Thích Ca, của Bồ-tát Di Lặc và Bồ-tát Quán Thế Âm. Trong kinh Tiểu bộ có rất nhiều chuyện tiền thân Đức Phật được ghi chép lại. Các nhân vật trong các câu chuyện tiền thân đều được tin là Bồ-tát thị hiện. Đã là Bồ-tát thì tất nhiên đã giải thoát sanh tử. Thế thì, Thái tử Tất-đạt-đa giáng sinhtu tập, chứng Phật quảtịch diệt là một trường hợp sanh tử (thuộc thân) xảy ra sau khi đã giải thoát sanh tử từ nhiều kiếp trước.

Về Bồ-tát Di Lặc, cả Nam truyền và Bắc truyền đều tin rằng Bồ-tát hiện ở cõi trời Đâu Suất (Tusita) và được tin rằng sẽ giáng sinh trong tương lai ở cõi Ta-bà để tiếp tục tu tập chứng ngộ Phật quảkế thừa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Còn Bồ-tát Quán Thế Âm, kinh Đại bi tâm Đà-ra-ni ghi rằng Ngài đã thành Phật hiệu Chánh Pháp Minh nhưng vì nguyện lực đại bi nên mới hiện thân là Quán Thế Âm để độ chúng sanh.

Khi một vị Bồ-tát hay vị thánh thị hiện tức là sanh, là xuất hiện. Tất nhiên, thân thị hiện đó sẽ phải diệt (tử) theo quy luật duyên sanh. Chỉ có chân tâm thanh tịnh, không bị sanh diệt theo trần cảnh và luôn tự tạiPhật giáo Đại thừa chủ trương thuyết độ sanh theo hình thức này. Từ đó, có thể giải thích thông suốt rằng Phật hay các bậc Thánh theo nguyện lực tùy duyên vào sanh ra tử để hóa độ chúng sanh nhưng tâm luôn tự tại, không bị khổ đau.

Có sự sống là có sanh tử

Về sanh tử, có hai phần cần phải phân biệt. Một là tâm sanh diệt. Hai là thân sanh diệt. Tâm sanh diệt, như Hòa thượng Thanh Từ nói, là vọng tâm. Còn chân tâm thì thanh tịnh hằng hữu ví như cái thấy của con mắt lúc nào cũng hằng hữu dù mắt nhắm hay mở. Thân tứ đại sanh diệt thì ai cũng có thể hiểu vì nó thuộc nguyên lý vật lý. Trong kinh Phật tự thuyết(Udana) thuộc Tiểu bộ IĐức Phật dạy về lý duyên khởi như sau: “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt, do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt, do cái này sinh nên cái kia sinh, do cái này diệt nên cái kia diệt.” Thân tứ đại đã sanh thì nó phải diệt, theo lý duyên khởi.

Theo lịch sử Đức Phật Thích Ca, Ngài chứng Niết-bàn thành Phật sau 49 ngày đêm thiền định. Kể từ khi ấy, tâm Phật luôn thanh tịnh không còn sanh diệt như vọng tâm của chúng sanhTuy nhiênthân tứ đại của Phật vẫn chịu sự chi phối bởi nguyên lý sanh diệtSuy rộng ra, khi có sự sống hiện hữu bằng thân tứ đại thì tất yếu có sự sanh tử. Đó là quy luật tự nhiên, là lý duyên khởi. Do đó, giải thoát sanh tử không có nghĩa là hoàn toàn không tồn tại ở cõi đời này hay thế giới khác.

Đạo Phật hướng đến giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn để sống tự tại trong cuộc đời mà làm lợi lạc quần sanhQuan niệm giải thoát sanh tử, chứng Niết-bàn ở thế giới nào đó và chỉ đạt được sau khi chết là một quan niệm cần đánh giá lại. Vì nói như thế là phủ nhận cuộc đời và giá trị đóng góp to lớn của Đức Phật Thích Ca Mâu NiĐồng thờiquan niệm ấy cũng làm cho Phật giáo trở nên siêu hình và xa lánh cuộc đời hiện hữu. Do vậy, nhận thức đúng khái niệm để hiểu đúng và tu tập đúng là quá trình rất cần đối với bất cứ ai tu tập Phật pháp.

 Thích Hạnh Chơn

___________________

(1) Từ điển Phật học Đạo Uyển;Phật Quang Đại từ điển; Từ điển Phật học Thiện Phúc.

(2) Thích Thiện Siêu. Giải thoát trong Phật giáo. <https://thuvienhoasen.org/a8567/giai-thoat-trong-phat-giao>, truy cập, 8-3-2017.

(3) Tâm Diệu. Quan niệm giải thoát trong Phật giáo và Bà-la-môn giáo. <https://thuvienhoasen.org/a7941/quan-niem-giai-thoat-trong-phat-giao-va-ba-la-mon-giao>, truy cập ngày 6-3-2017.

(4) Thích Thanh Từ. Giải thoát là cốt lõi của đạo Phật. <http://thuongchieu.net/index.php/phapthoai/suong/1823-gii-thoat-la-ct-loi-ca-o-pht>, truy cập ngày 6-3-2017.

(5) Đức Phật Thích Ca và các Thánh đệ tử A-la-hán đạt Niết-bàn, giải thoát sanh tử (về tâm) nhưng vẫn còn thân tứ đại nên thân ấy cũng phải theo quy luật sanh diệt. Khi thân các vị Thánh hoại thì được gọi là Niết-bàn vô dư.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3645)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3255)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3325)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2926)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3395)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3723)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3557)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3562)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2882)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3551)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3073)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3598)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3395)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3378)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3822)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3889)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3269)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3601)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3295)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3125)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3171)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4575)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3546)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3097)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4433)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3354)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3946)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4505)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3776)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3244)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3499)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3069)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3279)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3759)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3750)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3321)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3197)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3179)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3110)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3527)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3372)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3349)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3441)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3919)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3391)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3746)
Thật là một thảm họa khi tôi dự khóa tu thiền lần đầu tiên. Lưng tôi yếu sau nhiều năm ngồi gù lưng trước máy tính và ...
(Xem: 3403)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3449)
Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian,
(Xem: 4423)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
(Xem: 3441)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant