Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cách Tôn Kính Đúng Pháp

20 Tháng Ba 202216:08(Xem: 2569)
Cách Tôn Kính Đúng Pháp
Cách Tôn Kính Đúng Pháp

Thiền sư
 S.N. Goenka
(Phóng ghi từ pháp thoại của Ngài Goenka
tại Tu Viện “Dharma Drum”- Đài Loan)
Thích Nữ Hằng Liên dịch

Phương Thức Niệm Phật Của Phật Giáo Nam Tông Và Bắc Tông
 
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức PhậtMột lần nọ, Đức Phật hỏi rằng: “Như thế nào là pháp tôn kính đấng Giác Ngộ?” Minh chứng với hình ảnh chư Tăng – Ni đang ngồi thiền định, Ngài dạy rằng: “đây là cách tôn kính bậc Đạo Sư”.

Theo lời dạy của đức Phật, chỉ có thiền định mới thật sự là chân pháp tôn kính đức Như Lai. Pháp nhủ của Ngài là thiền định và duy trì sự tỉnh giác các hiện tượng thân – tâm để hiểu rõ bằng thực nghiệm rằng: “các pháp bất thiện sanh khởichúng tăng trưởng và chế ngự tâm chúng ta như thế nào? Làm sao để điều phục tiến trình này và chuyển hóa các tập khí ‘thói quen xấu’ trong tâm chúng ta?” Đây là những gì đức Phật gọi là thiền tuệ quán – vipassana: quán chiếu ‘bản chất pháp như thật” (như thị), tức là tự tánh thực tại bên trong ‘thân thể’ chính mình và mối tương tác giữa thân và tâm trong từng khoảnh khắc.

Vào thời đức Phật Gotama, có nhiều pháp môn thiền định hiện hành ở Ấn Độ. Các phương pháp ấy có thể đưa hành giả chứng đắc các cảnh giới đinh thâm sâu, chẳng hạn như các tầng thiền chứng thứ bảy và thứ tám là cảnh giới định cao nhất mà Ngài học được từ các bậc Thầy ở Ấn Độ thời bấy giờ. Nhưng chỉ với ‘định chứng’ (samadhi) không thể đưa Ngài tiến đến mục tiêu tối hậu của sự giải thoát hoàn toàn, tức là giác ngộ viên mãnVì vậy, khi ngồi dưới cội Bồ Đề Ngài bắt đầu quán chiếu về sự thật bên trong ‘thân – tâm’ chính mình và chứng đắc cảnh giới thiền tối thượng “hoàn toàn giác ngộ.”

Sự thật đầu tiên mà Ngài bắt đầu quán chiếu đó là dòng hơi thở tự nhiên. Đây là thiền Anapana (thiền tỉnh giác về hơi thở). Quan sát dòng hơi thở tự nhiên tại một điểm nhỏ, ngay nơi tiếp xúc giữa hơi thở ra và vào của hai lỗ mũi; dần dần tâm trở nên nhạy bén và nhạy bén hơn, vi tế và vi tế hơn, thuần hóa và thuần hóa hơn. Với tâm thuần hóa và nhạy bén, thiền sinh bắt đầu thực nghiệm các cảm thọ khác nhau nơi vị trí ‘dưới mũi và trên môi’ (hay là đỉnh nhơn trung). Rồi từ khởi điểm này thiền sinh bắt đầu quán chiếu toàn bộ cơ cấu ‘thân thể’, từ trên đỉnh đầu chuyển dần xuống các đầu ngón chân và từ các đầu ngón chân chuyển dần lên trên đỉnh đầu, thực nghiệm các loại cảm thọ khác nhau ‘hiện khởi’ trên thân. Có các loại cảm thọ khác nhau: đôi khi là những cảm thọ rất thô, cứng và căng thẳng, hoặc có lúc là các cảm thọ vi tế, nhẹ nhàng dễ chịu, hay là trạng thái vô ký (trung hòa: không đau nhức cũng không an lạc). Thiền sinh nên giữ (tâm bình thản) quán chiếu các cảm thọ ấy một các khách quan và không khởi tâm phản ứng theo từng cảm thọ.

Thiền sinh bắt đầu hiểu rõ tập khí (chủng tửphản ứng theo bản năng của chính mình: đó là bản năng say mê và tham đắm đối với các cảm thọ lạc (ưa thích), cũng như phản ứng giận dữ và sân hận với các cảm thọ khổ (không ưa thích). Nhận thức rõ sự thật này, thiền sinh sẽ cố gắng chuyển hóa các thói quen cố hữu của chính mình. Liễu ngộ hoàn toàn bản chất sanh diệt của mỗi cảm thọ khổ hay lạc, thô hoặc tế, chúng sanh khởi rồi tiêu diệt. Ôi! thật là vô thường qúa. Vì thế, vô thường (anicca) là đặc tánh đầu tiên tương quan với thân và tâm được hiển thị một cách rõ ràng trong thực nghiệm.

Khi sự thật này trở nên sáng tỏ, đặc tánh thứ hai cũng sẽ hiện khởi rõ ràng – đó là pháp ấn về khổ (dukkha). Với thực nghiệm thiền sinh sẽ nhận thức rõ: “bất cứ khi nào chúng ta có phản ứng say mê và tham đắm đối với cảm thọ ưa thích, tâm ta sẽ mất trạng thái cân bằng, cảm thấy không an vui và hài hòa. Tương tự, khi chúng ta có phản ứng giận dữ và sân hận với cảm thọ không ưa thích; ta cũng sẽ đánh mất trạng thái cân bằng của tâm và cảm thấy không an vui và hài hòa. Ồ! Đây là đau khổ.”

Rồi đặc tánh thứ ba trở nên hiển lộ rõ ràng hơn: “Cho dù cảm thọ lạc hay khổ, chúng ta không thể nào làm chủ hay điều phục được nó. Nếu muốn đẩy lùi các cảm thọ khó chịu (khổ) chúng ta không thể và muốn giữ lại các cảm thọ nhẹ nhàng khoan khoái (lạc) chúng ta cũng không thể. Vạn vật luôn xảy ra theo như tự tánh của chính nó.” Hơn nữa, trong thực nghiệm đặc tánh thứ ba sẽ khai thị rõ ràng, đó là pháp ấn về vô ngã (anatta). Không có cái “Tôi”, cái “của Tôi” và cái “tự ngã của Tôi” – tất cả chỉ là hiện tượng luôn luôn thay đổi trong từng khoảnh khắc. Hiện tượng thân tâm duyên khởi không có gì để gọi “đây là Tôi” hoặc “đây là của Tôi.” Khi thiền sinh tiếp tục hành trì ở mức độ sâu hơn, tự tánh sẽ khai ngộ rõ ràng về hiện tượng thân tâm hoàn toàn vô ngã và không có thực thể. Đó là ‘tánh không’ (sunnata), không có gì để chấp thủ và nói rằng “có bản thể” hay “đây là bản thể”. Sự thật không có bản thể nào cả.

Thiền sinh sẽ chính mình thực nghiệm về thực tại, vì đây không phải là thú vui lý tríĐức Phật dạy rằng, thiền sinh không nên chấp nhận một hình thức sùng tín hay cảm tính nào cả. Hiện tạithiền sinh chứng nghiệm được sự thật này và bắt đầu chuyển hóa các thói quen luôn phản ứng với tâm tham ái hay sân giận. Khi tập khí tham ái và sân giận được đoạn trừ tận gốc rễ, tâm sẽ trở nên thuần hóa và thanh tịnh hơn. Theo quy luật tự nhiên, khi tâm hoàn toàn thanh tịnh tự tánh sẽ tràn đầy lòng từ bi và thiện ý đối với mọi người. Một khi, trong tâm vẫn còn các tập khí tham ái thì chắc chắn tập khí sân giận cũng sẽ ở đó; và cho đến khi chưa đoạn trừ được tâm sân giận thì không thể nào phát khởi lòng từ bi.

Đức Phật chứng đắc cảnh giới tối thượng hoàn toàn giác ngộ và giải thoát nhờ hành trì thiền tuệ quán này và đó là lý do lời tuyên ngôn đầu tiên của Ngài về pháp “Nhân Duyên” (paticca-samuppada).

Vạn vật sanh khởi đều do nhân duyên, nếu (nhân) ‘cái này có’ thì (kết quả) ‘cái kia có.’ Trong tiến trình này đức Phật giải thích rõ ràng rằng, do nhân duyên sáu căn tiếp xúc với sáu trần sẽ hiện khởi các cảm thọ trên thân. Nếu cảm thọ ưa thíchchúng ta sẽ phản ứng với tâm tham ái; nếu cảm thọ không ưa thích chúng ta phản ứng với tâm bực mình (sân giận). Các cảm thọ sanh khởi trên thân đóng một vai trò rất quan trọng. Do vì tập khí vô minhchúng ta tiếp tục làm tăng trưởng đau khổ của chính mình buông theo các cảm thọ và phản ứng theo chúng. Ngược lại, với trí tuệ thực nghiệm chúng ta sẽ thoát khỏi đau khổ vì không còn phản ứng theo các cảm thọ.

Vào thời Phật tại thế (trước cũng như sau Ngài), ở Ấn Độ có rất nhiều pháp môn thiền định, nhưng không một ai giảng dạy về phương pháp quán chiếu các cảm thọ trên thân. Đây là khám phá vĩ đại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni Buddha). Bất cứ pháp môn thiền định nào cũng có thể đạt được tâm định tĩnh, an nhiên và thuần tịnh nhưng chỉ trên bề mặt tâm thứcđức Phật không thỏa mãn với các loại thiền chứng này. Ngài quán chiếu hướng sâu vào nội tâm và tận cùng trong tầng vô thức, tâm vẫn luôn liên tục phản ứng với các cảm thọ trên thân.
Vì thế, thực hành phương pháp thiền tuệ quán – ‘vipassana’ theo lời dạy của đấng Giác Ngộ, quan trọng hơn hết là các cảm thọ trên thân chúng ta. Khi thực hành thiền tuệ quán, thiền sinh vừa giữ tâm tỉnh giác với các cảm thọ, nhưng cũng vừa buông xả niệm thọ ấy. Đây là tiến trình thanh lọc tâm mang tính khoa học, một sự thanh tịnh tâm hoàn toàn.

Tôi rất vui mừng khi thấy một số chư Tăng Ni tham dự các khóa thiền Vipassana và tin rằng chư Tăng Ni sẽ thực hành thiền định hằng ngày. Tôi có lời khuyến khích chư Tăng Ni nên tham dự các khóa thiền nhiều hơn. Những người cư sĩ có rất nhiều tục sự khác nhau, đó là các trách nhiệm thế tục. Họ không thể dành nhiều thời gian cho thiền địnhChư Tăng Ni là những người hữu duyên trở thành Chư Tỳ Kheo và Chư Tỳ Kheo Ni để thực hành chánh pháp chuyên sâu hơn. Mong rằng chư Tăng Ni sẽ chứng nghiệm kết quả cao thượng nhất trong lời dạy của đấng Giác Ngộ nhờ thực hành thiền Vipassana. Hơn nữa, chư Tăng Ni nơi đây vô cùng may mắn có được bậc Chân Sư (HT Sheng Yen) là vị Thầy hướng đạo.

Cầu nguyện tất cả Tăng Ni đều thành công như ý!
Cầu nguyện chư Tăng Ni đều thành tựu chánh Pháp tối thượng!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3161)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3656)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3265)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3336)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2938)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3413)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3762)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3584)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3580)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2919)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3576)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3095)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3608)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3409)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3406)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3841)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3906)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3286)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3621)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3325)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3147)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3187)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4585)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3561)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3112)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4456)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3374)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3970)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4526)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3797)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3266)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3519)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3091)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3297)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3788)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3771)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3331)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3218)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3199)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3124)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3557)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3380)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3377)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3456)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3939)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3411)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3763)
Thật là một thảm họa khi tôi dự khóa tu thiền lần đầu tiên. Lưng tôi yếu sau nhiều năm ngồi gù lưng trước máy tính và ...
(Xem: 3438)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3479)
Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian,
(Xem: 4438)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant