Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lìa Tất Cả, Để Sống Một Mình

30 Tháng Sáu 202209:26(Xem: 2707)
Lìa Tất Cả, Để Sống Một Mình

Lìa Tất Cả, Để Sống Một Mình

Nguyên Giác


Sinh, Lão, Bệnh & Tử


Trong hàng đệ tử của Đức Phật, có một vị tăng hình dung xấu xí, lùn thấp, không chút nào hảo tướng, nên người mới gặp tự nhiên khó tôn kính. Đó là Trưởng lão Bhaddiya. Cũng chính vì nhận ra nhiều vị tăng đã khởi tâm bất kính khi thấy nhà sư lùn thấp Bhaddiya, Đức Phật đã nói lên hai bài kệ làm giựt mình đại chúng, rằng chính nhà sư Bhaddiya đã giết cha, giết mẹ, giết vua, giết cả triều đình… Bài này sẽ nhìn về cách Đức Phật nói lên các ẩn dụ như thế. Để rồi dẫn tới ý nghĩa về hạnh sống một mình. Các sai sót có thể có, người viết xin được sám hối.

Trong Kinh Pháp Cú, ghi lại các ẩn dụ đó là hai bài Kệ 294 và 295. Bản dịch của Thầy Minh Châu như sau.

294. "Sau khi giết mẹ cha,
Giết hai Vua Sát lỵ,
Giết vương quốc, quần thần
Vô ưuphạm chí sống."
.
295. "Sau khi giết mẹ cha,
Hai vua Bà-la-môn,
Giết hổ tướng thứ năm
Vô ưuphạm chí sống."
 (1)

Trong tích truyện về Kinh Pháp Cú, kể rằng, trong khi cư ngụ tại Tu viện Jetavana, Đức Phật đọc hai bài Kệ 294 và 295, là khi nói về Trưởng lão Bhaddiya, vị sư có thân hình lùn thấp. Lúc đó, một số tu sĩ tới thăm, đảnh lễ Đức Phật. Khi họ tới trước Đức Phậttình cờ thấy gần đó là nhà sư Bhaddiya. Đức Phật nói với nhóm tu sĩ tới thăm hãy chú ý về nhà sư lùn thấp và nói với đám đông các nhà sư: “Hỡi các tỳ khưu, hãy nhìn vị sư đó. Nhà sư đó đã giết cả cha và mẹ của sư, giết xong rồi, bây giờ không vương chút khổ nào nữa.” Các nhà sư tới thăm không hiểu câu nói đó, nên xin Đức Phật giải thích cho rõ.  

Trong ẩn dụ đó, Đức Phật nói giết “mẹ” là diệt tham ái (craving), giết “cha” là diệt chấp ngã (conceit). Nói giết “hai vua” trong bài kệ là trong tâm nhà sư Bhaddiya không còn dính chút nào về Thường kiến (chấp Vĩnh cửu, Eternity-belief) và Đoạn kiến (chấp Đoạn diệt Hư vô, Annihilation-belief), giết “vương quốc” là thấy không hề có cái gì gọi là các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), giết “quần thần” là thấy không hề có cái gì gọi là “cái được thấy, cái được nghe, cái được ngửi, cái được nếm, cái được chạm xúc, cái được tư lường.”

Trong bài Kệ 295 ghi trên, ẩn dụ giết mẹ và cha cũng là dứt trừ tham ái và ngã chấp, giết hai vua Bà La Môn là lìa Thường kiến và Đoạn kiến, con hổ là năm triền cái. Sau khi giải thíchĐức Phật đọc hai bài Kệ 294 và 295.

Bản dịch của Thầy Minh Châu hoàn toàn phù hợp từng chữ với bốn bản Anh dịch của bốn học giả: Bhikkhu Thanissaro, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, Peter Feldmeier. Tuy nhiên, bản Anh dịch bài Kệ 294 của Ācāriya Buddharakkhita lại khác, ghi là giết thêm ông Bộ Trưởng Tài Chính giữ kho bạc (có lẽ, dựa theo một cổ bản Pali khác):

294. Having slain mother (craving), father (self-conceit), two warrior-kings (eternalism and nihilism), and destroyed a country (sense organs and sense objects) together with its treasurer (attachment and lust), ungrieving goes the holy man. (2)

Nơi đây, chúng ta sẽ dịch theo sát từng chữ như sau:

294. Giết xong mẹ (tham ái), cha (ngã chấp), hai vua Sát lỵ (thường kiến và đoạn kiến), phá hủy một quốc gia (căn và trần) và [giết] viên quan thủ quỹ (dính mắc và ái dục), bậc thánh tăng bước đi, không ưu phiền.

Sau khi Đức Phật giải thích xong, các nhà sư tới thăm đều đắc quả A la hán. Nghĩa là, khi thấy cả thân tâm, trong và ngoài đều không có gì buộc nữa, thì là xong. Duyên khởi về nhà sư Bhaddiya trước đó cũng tương tự. Vị sư này hẳn nhiên là lùn thấp, xấu xí nổi bật, cho nên các Kinh khi dịch sang tiếng Anh đều ghi lúc thì “Bhaddiya the Dwarf” hay lúc thì “The Short one” --- nghĩa là, hễ nói thấp là người nghe nghĩ tới Thầy này.

Trong Kinh Udana 7.1 có ghi về trường hợp ngài Bhaddiya chứng quảgiải thoát. Nơi đây, xin dịch sang tiếng Việt, dựa vào bản Anh dịch của ngài Sujato:

Như vầy tôi nghe. Một lầnĐức Phật cư ngụ gần thành Sāvatthī (Xá vệ) trong vườn Jeta (Kỳ đà), tu viện Anāthapiṇḍika (Cấp cô độc). Lúc đó, Đại sư Sāriputta (Xá lợi phất) đang thuyết giảng, sách tấn, thúc giục, gợi cảm hứng nhà sư lùn thấp Bhaddiya bằng một bài Pháp. Sau khi được nghe dạy, tâm của ngài Bhaddiya được giải thoát khỏi lậu hoặc bằng cách không nắm giữ gì (freed from defilements by not graspingxa lìa lậu hoặc vì tâm vô sở trụ). Đức Phật thấy chuyện xảy ra như thế. Đức Phật mới nói lời cảm hứng tự trong tâm:

‘Phía trên, phía dưới, mọi nơi đều giải thoát,
không còn tư lường ‘Tôi là thế này’.
Giải thoát như thế, vị này đã vượt dòng thác lũ
nơi trước đó chưa qua được, bây giờ sẽ không còn tái sinh nữa.
” (3)

Nên ghi chú rằng: “trên, dưới, mọi nơi” có nhiều nghĩa. Trong đó, nghĩa đơn giản nhất là: trong mọi trường hợp của “quá khứ, vị laihiện tại.” Người đã “sát tận, diệt tuyệt” như thế cũng được gọi là người sống một mình, người sống hạnh đơn độc. Chứ không nói đơn giản người “sống một mình” là người lui vào góc núi, ven rừng.

Đức Phật từng giải thích về người biết sống một mình qua bài Kinh SA-1071, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng trich như sau:

Tỳ-kheo Thượng Tọa bạch Phật: “Con chỉ ở một mình nơi vắng vẻ, khen ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, ra khỏi làng một mìnhngồi thiền tư một mình.”

Phật bảo Tỳ-kheo Thượng Tọa: “Ông là kẻ sống một mình, Ta không nói là chẳng phải sống một mình. Nhưng lại có lối sống một mình thắng diệu hơn. Sao gọi là lối sống một mình thắng diệu? Đó là Tỳ-kheo phía trước thì khô cằn, phía sau thì diệt tận, ở giữa thì không tham hỷ. Đó là Bà-la-môn tâm không còn do dự, đã xả ưu hối, lìa các hữu ái, đoạn các kết sử. Đây gọi là sống một mình không có lối sống nào thắng diệu hơn nữa.”…” (4)

Nghĩa bài kinh vừa dẫn rất minh bạch: “phía trước khô cằn” là đừng mơ tưởng gì nơi tương lai, “phía sau diệt tận” là chớ bận tâm gì tới quá khứ, “ở giữa không tham hỷ” là hiện tại, ngay giây phút này, xa lìa mọi tham ái trong ba cõi. Đó mới thực là sống một mình.

 

GHI CHÚ:

(1) HT Minh ChâuKinh Pháp Cú:  https://thuvienhoasen.org/p15a7964/pham-21-26

(2) Kệ 294 (bản Ācāriya Buddharakkhita): https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/dhp/dhp.21.budd.html

(3) Kinh Ud 7.1, bản dịch Sujato: https://suttacentral.net/ud7.1/en/sujato

(4) Kinh SA-1071: https://suttacentral.net/sa1071/vi/tue_sy-thang

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2543)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2238)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2542)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2453)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3270)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2333)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2425)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2557)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2477)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2227)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2592)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3062)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2658)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2727)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3015)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2576)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2619)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4120)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2784)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3084)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2295)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2529)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3015)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2882)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2629)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2641)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3196)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2600)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2397)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2492)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2609)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2701)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3281)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2569)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2609)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2834)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2961)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2517)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant