Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường Vô Ngã

26 Tháng Mười 202215:14(Xem: 1866)
Con Đường Vô Ngã
Con Đường Vô Ngã

HT. Thích Thông Phương


chua 1

Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác. Do vậy, Lục Tổ Huệ Năng dạy vị tăng Pháp Đạt, “Có ta tội liền sanh, không ta phước vô kể.”

Tức là vị tăng này chấp có “ta” tụng kinh, tụng được 3,000 bộ kinh Pháp Hoa nên lạy Tổ mà đầu không sát đất. Bởi vị này ở xa nghe tiếng Tổ chứ không kính lắm, chỉ lạy bất đắc dĩ nên Lục Tổ mới quở: Tụng kinh mà có “ta” thì chưa được, có “ta” tụng kinh, “ta” ngồi thiềncần phải xem chừng cái ta đó.

Như vậy, người tu đúng pháp thì phải tiêu mòn cái ngã. Mình chưa phải thánh, chưa phải Phật thì chưa hết nhưng phải từng bước, từng bước bào mòn. Ví dụ như mình mới tu thì tình chấp còn nặng, nhưng tu một năm, hai, ba năm thì nó phải vơi đi bớt chứ không phải nó còn y nguyên hoặc nặng hơn nữa thì nguy hiểm!

Có những trường hợp tu càng lâu thì nó càng to hơn nữa: Mới vô tu thì còn e dè, khiêm tốn, nhường nhịn người này người kia, nhưng khi nghĩ rằng “Tôi là người tu lâu” thì sao? Khi tụng kinh hay ngồi thiền mà sắp mình ngồi tuốt phía sau thì có vui không? Do vậy, mình phải hiểu, tu càng lâu thì tình chấp ngã phải càng bớt, càng nhẹ, như vậy mới đúng, chứ càng tu mà tình chấp càng thêm nữa thì không phải. Đó là lẽ thật. Anh tu lâu, chứng đạongộ đạo nhưng phải hỏi lại “Cái ngã anh sao rồi?” Nếu nói tu cao mà cái ngã của anh cũng cao nữa thì không phải rồi.

Đức Phật trong thời kỳ còn tu Bồ-tát hạnh thì Ngài hy sinh đầu, mắt, v.v.. Có kiếp thấy con hổ đói khổ nên Ngài đem thân của mình cho ăn. Nhưng nó đói quá không còn sức để ăn nữa nên Ngài chích máu cho nó liếm. Khi có sức rồi, nó mới đứng dậy ăn! Cho đến khi Ngài đã thành Phật, trên đường đi hóa đạo thì những người theo đạo Bà-la-môn quy y theo Ngài nhiều nên ông thầy Bà-la-môn của họ trước đây lấy làm giận tức.

Một hôm, trên đường Phật đi khất thực, ông cứ đi theo sau mắng chửi. Chửi một hồi mà Phật vẫn yên lặng đi, ông bèn chạy lại đằng trước chặn đường Phật và hỏi, “Cù-đàm! Ông thua tôi chưa?”

Phật thong thả nói bài kệ:

Kẻ hơn thì thêm oán,
Người thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua hai đều xả,
Ấy được an ổn ngủ.

Người đời là vậy đó! Còn chấp ngã thì thấy cái gì cũng muốn hơn, mà hơn thì người kia oán mình, trái lại nghĩ mình thua thì tối ngủ cũng không được, phải tìm cách gì đó để mai mình hơn trở lại. Hơn hay thua đều bất an hết. Đó cũng là do có cái “tôi,” nên đây Phật nói hơn thua hai đều xả hết thì nằm duỗi hai chân ngủ an ổn. Như vậy, Phật cũng còn bị chửi huống chi mình, nhưng Ngài không có cái “tôi” nên ông Bà-la-môn chửi ai thôi chứ không phải chửi Ngài, do đó Ngài không khổ. Còn mình nghe chửi thì “Nó chửi tôi đó!” nên thành khổ! Nên biết, sở dĩ họ chửi là để chọc cho mình tức, nếu mình sân mà chửi lại thì đó là rơi vào bẫy. Còn bây giờ họ chửi nhưng mình nói: “À! Không có gì cả!” thì họ không làm gì được, là thoát bẫy. Phật dạy là như vậy, đó là để cho mình giải tỏa nhẹ dần đau khổ.

Thiền sư Đạo Nguyên có dạy, “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, và buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.”

Học đạo là học như vậy: “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, mà buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.” Tức là sống được với đạo, Ngài tổng kết thật đơn giản. Nhiều khi nghĩ mình học đạo là học cái này, cái kia v.v. cho nhiều mà không ngờ học nhiều hiểu nhiều thì thêm ngã nữa: “Tôi hiểu đạo nhiều!” Đó là nguy hiểm.

Như vậy, Thiền sư Đạo Nguyên tóm tắt rất đơn giản mà lại đầy đủ ý nghĩa. Đây không phải nói suông thôi mà Ngài còn thực hành trong đời sống của Ngài nữa. Lúc Ngài khoảng 48 tuổi đời, một hôm một vị đệ tử có chức vụ trong Thiền Viện của Ngài hãnh diện đến báo tin, “Có vị lãnh chúa trong vùng phát tâm cúng dường một miếng đất cho Thiền viện.” Nếu là người khác mà nghe vậy thì chắc mừng lắm, nhưng vừa nghe xong thì Ngài lột y ông tăng đang mặc đó và đuổi ra khỏi Thiền Viện! Không những vậy, Ngài Đạo Nguyên còn cho khoét cái sàn ngồi thiền chỗ ông tăng đó và đào sâu xuống đất.

Sau đó, Ngài bảo, “Dính mắc vào danh lợi còn xấu xa hơn phạm giới. Phạm những giới luật thì chỉ khổ trong chốc lát, còn dính mắc vào danh lợi là khổ cả ngàn đời!”

Người xưa nghiêm khắc như vậy! Đây là Ngài cảnh cáo, mà cũng là kinh nghiệm cho người tu và người học Phật. Người học Phật thì phải đi qua con đường vô ngã, phải bớt phải nhẹ dần. Có câu chuyện về ông Tô Đông Pha, một hôm ông cảm hứng làm bài kệ:

Khể thủ thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong xuy bất động,
Đoan tọa tử kim liên.

        Dịch:

Cúi đầu lễ Thế Tôn,
Hào quang chiếu ba ngàn.
Tám gió thổi chẳng động,
Ngồi thẳng trên đài sen.

Rồi ông sai người đi qua sông đem trình Thiền sư Phật Ấn. Ngài Phật Ấn bèn đề hai chữ: “Đánh rắm!” bảo đem về đưa cho ông. Khi ông mở ra đọc thì nổi nóng lên liền! Ông bèn lập tức lấy thuyền qua sông gặp Thiền sư Phật ẤnThiền sư Phật Ấn ra trước đón ông và bảo, “Tám gió thổi không động nhưng chỉ cần một cú “đánh rắm” đã thổi ông từ bên kia sông qua tới bên đây rồi!.” Rõ ràng, đó là cái “tôi” bị xúc phạm mà ra.

Do vậy, người học đạo phải thực hành, phải thực sống. Mỗi vị tự kiểm lại, năm nay mình tu học được một năm thì cái ngã có bớt chút nào không? Nếu không bớt thì năm tới phải ráng bớt, chứ không thể năm tới cũng giống như năm nay. Mà giải trừ chấp ngã cuối cùng là đưa đến vô ngã. Vậy tu đến cuối cùng thì có ta hay không? Đó mới quan trọng. Nếu có thì tu đến cuối cùng cũng như phàm phu, vậy tu làm chi? Còn nếu không thì cuối cùng như cây như đá, vậy tu để làm gì?

Do vậy, nếu học không kỹ, không tới nơi thì dễ lầm lạc, ở đây quý thầy chỉ gợi ý thôi chứ trong nhà Thiền mà nói có hay không là không được rồi. Nếu hoàn toàn vô ngãcuối cùng không còn gì hết thì cái gì rõ được vô ngã để chỉ dạy lại cho người khác? Bởi vậy, có hay không thì quý vị tự nghiệm là biết.

Có câu chuyệnTôn giả Nghiêm Dương đến hỏi Ngài Triệu Châu, “Khi con không còn vật gì để đem đến đây thì sao?”

Ngài Triệu Châu trả lời, “Vậy ông buông xuống đi!”

Ông thưa, “Con đã nói với Ngài là không có vật gì đem đến, vậy thì buông cái gì nữa?”

Ngài mới bảo, “Ông buông không được thì vác lên đi.”

Buông sạch hết, không còn gì để buông nữa thì lúc đó mới là chỗ sống của ông. Còn có cái gì để buông nữa thì không phải, vì có cái để buông thì còn có bóng dáng cái tôi, còn có hư vọng. Còn hư vọng thì buông được, còn chính mình thì làm sao buông, lấy gì để buông? Đó là chỉ cho những cái hư dối, những cái không thật, không phải mình mà chấp là mình. Cho nên, buông ở đây là buông cái tình chấp, cũng như phá là phá cái tình chấp, chứ không phải là có cái ngã để mình phá! Chính là mình thì làm sao mà phá, cho nên phá là phá cái tình chấp, cái mê lầm. Mà khi cái tình chấp, cái mê lầm hết thì đó mới chính là chỗ sống chân thật.

Cái này thì Phật ít nói đến vì nếu nói thì mình dễ hiểu lầm, chấp lầm cái đó với bản ngã, tức là chấp cái giả làm cái thật. Mà khi mình tự sạch hết những tình chấp thì mình biết liền, lúc đó không cần nói mình cũng biết. Còn bây giờ mà nói thì mình chỉ tưởng tượng khái niệm về nó.

Trong kinh, Phật thường dạy:

“Năm uẩn là vô ngãSắc không phải là ta, không phải là của ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mắt không phải là ta, không phải là của ta. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng là như thế.”

Ngài nói năm uẩn không phải ta, không phải là của ta, nhưng Ngài vẫn nói Như Lai, vẫn nói Chánh giác. Cho nên, chỉ người có công phu tu hành thì thầm cảm nhận, chứ cứ lo giải thích theo chữ nghĩa thì nhiều khi hiểu lầm. Ví dụ như khi tình chấp sạch hết rồi mà Phật nói cái ngã ấy như thế này, như thế kia v.v. thì mình hiểu lầm nó là vật này, vật kia v.v. thì vô tình chấp ngã trở lại. Do vậy, đây cho thấy rằng mình không phải lo sợ khi buông xả hết, đến cuối cùng không còn gì hết, như cây như đá. Nếu lúc đó không còn gì hết thì làm sao Phật có thể thuyết pháp, có thể giảng kinh. Chư Tổ và các Thiền sư cũng như vậy, đó là lẽ thật.

Bản ngã là nguồn tội lỗi, là nguồn đi vào luân hồi sanh tử, chấp vào nó là vô minh, là mê lầm. Người tu Phật là đi trên con đường trí tuệ, trên con đường an vui giải thoát nên không thể đi theo vô minh được. Do vậy, mình phải nhận kỹ, phải giải trừ tình chấp ngã này chứ không cố bám chấp vào nó để đau khổ mãi.

Cuộc sống hiện tại của mình đây có ngăn cách nhau, không đến được với nhau là cũng vì cái ngã này. Bởi cái ngã đó ngăn cách nên mình mới không thông cảm nhau, còn nếu giảm bớt, nhẹ bớt cái ngã thì mình dễ đến với nhau. Do vậy, nhắc nhở đây để mình tu hành đúng theo chánh pháp, không có sai. Quý vị nắm vững cái này thì không ai gạt được mình hết.

Ai nói, “Tôi tu hay, tu giỏi v.v.. Tôi thế này, thế kia v.v..” thì kiểm lại xem cái ngã có giỏi, có cao không? Nếu tu cao mà cái ngã còn cao là không phải, như vậy thì mình biết nên không lầm theo. Mong rằng bài pháp này sẽ giúp cho mỗi người sống cởi mở với nhauđến gần nhau, thật hiểu nhau hơn và luôn sống vui nhẹ bản ngã.

(Trích từ bài pháp thoại “Giải Trừ Bản Ngã” của Hòa Thượng Thích Thông Phương được đăng trên trang Facebook “Thiền sư Thích Thanh Từ và những lời dạy.”)

Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác. Do vậy, Lục Tổ Huệ Năng dạy vị tăng Pháp Đạt, “Có ta tội liền sanh, không ta phước vô kể.”

Tức là vị tăng này chấp có “ta” tụng kinh, tụng được 3,000 bộ kinh Pháp Hoa nên lạy Tổ mà đầu không sát đất. Bởi vị này ở xa nghe tiếng Tổ chứ không kính lắm, chỉ lạy bất đắc dĩ nên Lục Tổ mới quở: Tụng kinh mà có “ta” thì chưa được, có “ta” tụng kinh, “ta” ngồi thiềncần phải xem chừng cái ta đó.

Như vậy, người tu đúng pháp thì phải tiêu mòn cái ngã. Mình chưa phải thánh, chưa phải Phật thì chưa hết nhưng phải từng bước, từng bước bào mòn. Ví dụ như mình mới tu thì tình chấp còn nặng, nhưng tu một năm, hai, ba năm thì nó phải vơi đi bớt chứ không phải nó còn y nguyên hoặc nặng hơn nữa thì nguy hiểm!

Có những trường hợp tu càng lâu thì nó càng to hơn nữa: Mới vô tu thì còn e dè, khiêm tốn, nhường nhịn người này người kia, nhưng khi nghĩ rằng “Tôi là người tu lâu” thì sao? Khi tụng kinh hay ngồi thiền mà sắp mình ngồi tuốt phía sau thì có vui không? Do vậy, mình phải hiểu, tu càng lâu thì tình chấp ngã phải càng bớt, càng nhẹ, như vậy mới đúng, chứ càng tu mà tình chấp càng thêm nữa thì không phải. Đó là lẽ thật. Anh tu lâu, chứng đạongộ đạo nhưng phải hỏi lại “Cái ngã anh sao rồi?” Nếu nói tu cao mà cái ngã của anh cũng cao nữa thì không phải rồi.

Đức Phật trong thời kỳ còn tu Bồ-tát hạnh thì Ngài hy sinh đầu, mắt, v.v.. Có kiếp thấy con hổ đói khổ nên Ngài đem thân của mình cho ăn. Nhưng nó đói quá không còn sức để ăn nữa nên Ngài chích máu cho nó liếm. Khi có sức rồi, nó mới đứng dậy ăn! Cho đến khi Ngài đã thành Phật, trên đường đi hóa đạo thì những người theo đạo Bà-la-môn quy y theo Ngài nhiều nên ông thầy Bà-la-môn của họ trước đây lấy làm giận tức.

Một hôm, trên đường Phật đi khất thực, ông cứ đi theo sau mắng chửi. Chửi một hồi mà Phật vẫn yên lặng đi, ông bèn chạy lại đằng trước chặn đường Phật và hỏi, “Cù-đàm! Ông thua tôi chưa?”

Phật thong thả nói bài kệ:

Kẻ hơn thì thêm oán,
Người thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua hai đều xả,
Ấy được an ổn ngủ.

Người đời là vậy đó! Còn chấp ngã thì thấy cái gì cũng muốn hơn, mà hơn thì người kia oán mình, trái lại nghĩ mình thua thì tối ngủ cũng không được, phải tìm cách gì đó để mai mình hơn trở lại. Hơn hay thua đều bất an hết. Đó cũng là do có cái “tôi,” nên đây Phật nói hơn thua hai đều xả hết thì nằm duỗi hai chân ngủ an ổn. Như vậy, Phật cũng còn bị chửi huống chi mình, nhưng Ngài không có cái “tôi” nên ông Bà-la-môn chửi ai thôi chứ không phải chửi Ngài, do đó Ngài không khổ. Còn mình nghe chửi thì “Nó chửi tôi đó!” nên thành khổ! Nên biết, sở dĩ họ chửi là để chọc cho mình tức, nếu mình sân mà chửi lại thì đó là rơi vào bẫy. Còn bây giờ họ chửi nhưng mình nói: “À! Không có gì cả!” thì họ không làm gì được, là thoát bẫy. Phật dạy là như vậy, đó là để cho mình giải tỏa nhẹ dần đau khổ.

Thiền sư Đạo Nguyên có dạy, “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, và buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.”

Học đạo là học như vậy: “Học đạo là học tự ngã, mà học tự ngã là buông bỏ tự ngã, mà buông bỏ tự ngã là chứng các pháp.” Tức là sống được với đạo, Ngài tổng kết thật đơn giản. Nhiều khi nghĩ mình học đạo là học cái này, cái kia v.v. cho nhiều mà không ngờ học nhiều hiểu nhiều thì thêm ngã nữa: “Tôi hiểu đạo nhiều!” Đó là nguy hiểm.

Như vậy, Thiền sư Đạo Nguyên tóm tắt rất đơn giản mà lại đầy đủ ý nghĩa. Đây không phải nói suông thôi mà Ngài còn thực hành trong đời sống của Ngài nữa. Lúc Ngài khoảng 48 tuổi đời, một hôm một vị đệ tử có chức vụ trong Thiền Viện của Ngài hãnh diện đến báo tin, “Có vị lãnh chúa trong vùng phát tâm cúng dường một miếng đất cho Thiền viện.” Nếu là người khác mà nghe vậy thì chắc mừng lắm, nhưng vừa nghe xong thì Ngài lột y ông tăng đang mặc đó và đuổi ra khỏi Thiền Viện! Không những vậy, Ngài Đạo Nguyên còn cho khoét cái sàn ngồi thiền chỗ ông tăng đó và đào sâu xuống đất.

Sau đó, Ngài bảo, “Dính mắc vào danh lợi còn xấu xa hơn phạm giới. Phạm những giới luật thì chỉ khổ trong chốc lát, còn dính mắc vào danh lợi là khổ cả ngàn đời!”

Người xưa nghiêm khắc như vậy! Đây là Ngài cảnh cáo, mà cũng là kinh nghiệm cho người tu và người học Phật. Người học Phật thì phải đi qua con đường vô ngã, phải bớt phải nhẹ dần. Có câu chuyện về ông Tô Đông Pha, một hôm ông cảm hứng làm bài kệ:

Khể thủ thiên trung thiên,
Hào quang chiếu đại thiên.
Bát phong xuy bất động,
Đoan tọa tử kim liên.

        Dịch:

Cúi đầu lễ Thế Tôn,
Hào quang chiếu ba ngàn.
Tám gió thổi chẳng động,
Ngồi thẳng trên đài sen.

Rồi ông sai người đi qua sông đem trình Thiền sư Phật Ấn. Ngài Phật Ấn bèn đề hai chữ: “Đánh rắm!” bảo đem về đưa cho ông. Khi ông mở ra đọc thì nổi nóng lên liền! Ông bèn lập tức lấy thuyền qua sông gặp Thiền sư Phật ẤnThiền sư Phật Ấn ra trước đón ông và bảo, “Tám gió thổi không động nhưng chỉ cần một cú “đánh rắm” đã thổi ông từ bên kia sông qua tới bên đây rồi!.” Rõ ràng, đó là cái “tôi” bị xúc phạm mà ra.

Do vậy, người học đạo phải thực hành, phải thực sống. Mỗi vị tự kiểm lại, năm nay mình tu học được một năm thì cái ngã có bớt chút nào không? Nếu không bớt thì năm tới phải ráng bớt, chứ không thể năm tới cũng giống như năm nay. Mà giải trừ chấp ngã cuối cùng là đưa đến vô ngã. Vậy tu đến cuối cùng thì có ta hay không? Đó mới quan trọng. Nếu có thì tu đến cuối cùng cũng như phàm phu, vậy tu làm chi? Còn nếu không thì cuối cùng như cây như đá, vậy tu để làm gì?

Do vậy, nếu học không kỹ, không tới nơi thì dễ lầm lạc, ở đây quý thầy chỉ gợi ý thôi chứ trong nhà Thiền mà nói có hay không là không được rồi. Nếu hoàn toàn vô ngãcuối cùng không còn gì hết thì cái gì rõ được vô ngã để chỉ dạy lại cho người khác? Bởi vậy, có hay không thì quý vị tự nghiệm là biết.

Có câu chuyệnTôn giả Nghiêm Dương đến hỏi Ngài Triệu Châu, “Khi con không còn vật gì để đem đến đây thì sao?”

Ngài Triệu Châu trả lời, “Vậy ông buông xuống đi!”

Ông thưa, “Con đã nói với Ngài là không có vật gì đem đến, vậy thì buông cái gì nữa?”

Ngài mới bảo, “Ông buông không được thì vác lên đi.”

Buông sạch hết, không còn gì để buông nữa thì lúc đó mới là chỗ sống của ông. Còn có cái gì để buông nữa thì không phải, vì có cái để buông thì còn có bóng dáng cái tôi, còn có hư vọng. Còn hư vọng thì buông được, còn chính mình thì làm sao buông, lấy gì để buông? Đó là chỉ cho những cái hư dối, những cái không thật, không phải mình mà chấp là mình. Cho nên, buông ở đây là buông cái tình chấp, cũng như phá là phá cái tình chấp, chứ không phải là có cái ngã để mình phá! Chính là mình thì làm sao mà phá, cho nên phá là phá cái tình chấp, cái mê lầm. Mà khi cái tình chấp, cái mê lầm hết thì đó mới chính là chỗ sống chân thật.

Cái này thì Phật ít nói đến vì nếu nói thì mình dễ hiểu lầm, chấp lầm cái đó với bản ngã, tức là chấp cái giả làm cái thật. Mà khi mình tự sạch hết những tình chấp thì mình biết liền, lúc đó không cần nói mình cũng biết. Còn bây giờ mà nói thì mình chỉ tưởng tượng khái niệm về nó.

Trong kinh, Phật thường dạy:

“Năm uẩn là vô ngãSắc không phải là ta, không phải là của ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mắt không phải là ta, không phải là của ta. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng là như thế.”

Ngài nói năm uẩn không phải ta, không phải là của ta, nhưng Ngài vẫn nói Như Lai, vẫn nói Chánh giác. Cho nên, chỉ người có công phu tu hành thì thầm cảm nhận, chứ cứ lo giải thích theo chữ nghĩa thì nhiều khi hiểu lầm. Ví dụ như khi tình chấp sạch hết rồi mà Phật nói cái ngã ấy như thế này, như thế kia v.v. thì mình hiểu lầm nó là vật này, vật kia v.v. thì vô tình chấp ngã trở lại. Do vậy, đây cho thấy rằng mình không phải lo sợ khi buông xả hết, đến cuối cùng không còn gì hết, như cây như đá. Nếu lúc đó không còn gì hết thì làm sao Phật có thể thuyết pháp, có thể giảng kinh. Chư Tổ và các Thiền sư cũng như vậy, đó là lẽ thật.

Bản ngã là nguồn tội lỗi, là nguồn đi vào luân hồi sanh tử, chấp vào nó là vô minh, là mê lầm. Người tu Phật là đi trên con đường trí tuệ, trên con đường an vui giải thoát nên không thể đi theo vô minh được. Do vậy, mình phải nhận kỹ, phải giải trừ tình chấp ngã này chứ không cố bám chấp vào nó để đau khổ mãi.

Cuộc sống hiện tại của mình đây có ngăn cách nhau, không đến được với nhau là cũng vì cái ngã này. Bởi cái ngã đó ngăn cách nên mình mới không thông cảm nhau, còn nếu giảm bớt, nhẹ bớt cái ngã thì mình dễ đến với nhau. Do vậy, nhắc nhở đây để mình tu hành đúng theo chánh pháp, không có sai. Quý vị nắm vững cái này thì không ai gạt được mình hết.

Ai nói, “Tôi tu hay, tu giỏi v.v.. Tôi thế này, thế kia v.v..” thì kiểm lại xem cái ngã có giỏi, có cao không? Nếu tu cao mà cái ngã còn cao là không phải, như vậy thì mình biết nên không lầm theo. Mong rằng bài pháp này sẽ giúp cho mỗi người sống cởi mở với nhauđến gần nhau, thật hiểu nhau hơn và luôn sống vui nhẹ bản ngã.

(Trích từ bài pháp thoại “Giải Trừ Bản Ngã” của Hòa Thượng Thích Thông Phương được đăng trên trang Facebook “Thiền sư Thích Thanh Từ và những lời dạy.”)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16675)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24142)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20571)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18821)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21314)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18270)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19846)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14843)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 12971)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 13953)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13146)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14006)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17635)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15397)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14691)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14455)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17851)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 21895)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19451)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20605)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25133)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16877)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14710)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 18979)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22001)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20632)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25279)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15769)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15772)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20723)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17011)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18632)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20017)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39305)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31509)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30598)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36014)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23864)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26548)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant