Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chớ Nên Chỉ Tin Một Người

21 Tháng Hai 202317:59(Xem: 1766)
Chớ Nên Chỉ Tin Một Người
Chớ Nên Chỉ Tin Một Người

Thích Nguyên Hùng

Đời Như Tấm Gương Soi

Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội. Trong Kinh Tạp A-hàm, Đức Phật nói rằng, nếu chúng ta chỉ tin vào một người thì sẽ có năm tai hại.

Thứ nhất, khi đặt trọn niềm tin vào một người, kính tin rất mực, rồi thì người ấy hoặc phạm giới, hoặc làm trái luật nghi và bị cộng đồng Tăng lữ từ bỏ, khi đó người gởi trọn niềm tin sẽ nghĩ rằng: “Đây là thầy của ta, được ta kính trọng mà bị chúng Tăng từ bỏ, nay ta còn lý do gì để đi chùa nữa?” Khi đã không đi chùa nữa thì người này sẽ không cung kính chúng Tăng. Vì không kính chúng Tăng nên không còn được nghe pháp. Do không còn nghe pháp nên pháp lành bị suy giảm, người này không được an trụ lâu dài trong Chánh pháp. Đó gọi là tai hại thứ nhất phát sanh do chỉ tin vào một người.”

Đây là tai hại không chỉ vì tin vào một người mà còn vì đặt niềm tin không đúng chỗ, cho nên khi người thầy, người cô mà mình tin tưởng vi phạm lỗi lầm thì mình không những tẩy chay người thầy, người cô bấy lâu mình thân cận mà mình còn khinh thường các tăng ni nói chung và còn bỏ luôn chùa, không nghe pháp, quay lưng với Tam bảo. Một khi không nghe pháp, không đi chùa, không thực hành pháp, không tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền thì pháp lành ngày một tổn giảm, người Phật tử này không còn an trụ lâu dài trong chánh pháp nữa. Thật tai hại vô cùng!

Thứ hai, vì chỉ kính tin vào một người nên khi người ấy trái phạm giới luật và bị cộng đồng tăng lữ cử tội “không nhận lỗi”[1] thì người gởi trọn niềm tin liền suy nghĩ: “Đây là thầy ta, được ta kính trọng mà bị chúng Tăng cử tội ‘không nhận lỗi,’ nay ta còn lý do gì để đi chùa nữa?” Khi đã không đi chùa nữa thì người này sẽ không cung kính chúng Tăng. Vì không kính chúng Tăng nên không còn được nghe pháp. Do không còn nghe pháp nên pháp lành bị suy giảm, người này không được an trụ lâu dài trong Chánh pháp. Đó gọi là tai hại thứ hai phát sanh do chỉ tin vào một người.”

Khi chưa phải Thánh nhân, ai chẳng phạm lỗi lầm? Phạm lỗi mà biết ăn năn sám hối, biết chấp nhận sửa đổi, đó là hạng người hướng thiện, mạnh mẽ nhất trên đời. Trong trường hợp này, người thầy hoặc sư côPhật tử kính tin có thể mắc phải một lỗi lầm, vụng về nào đó đáng bị khiển trách, thay vì nhận lỗi để sám hối, đương sự lại ‘cứng đầu’, bảo thủ, không chịu chấp nhận, khiến cộng đồng tăng lữ phải cử thêm tội ‘không nhận lỗi.’ Khi người thầy mình tin tưởng bị chúng tăng buộc tội, người Phật tử cảm thấy bị tổn thương, thất vọng, từ đó xa lánh tăng ni, bỏ bê tu học, không siêng năng đi chùa, nghe phápthực hành pháp. Đây là tai hại thứ hai chỉ vì kính tin vào một người.

Thứ ba, nếu vị được kính tin đắp y, ôm bát du hành phương khác, đi hoằng phápnơi khác, đến quốc gia khác… thì người kính tin vị kia sẽ suy nghĩ: “Người được ta kính trọng đã đắp y, ôm bát du hành trong nhân gian thì nay ta còn lý do gì để đi chùa nữa?” Khi đã không đi chùa rồi thì người này sẽ không cung kính chúng Tăng. Vì không kính chúng Tăng nên không còn được nghe pháp. Do không còn nghe pháp nên pháp lành bị suy giảm, người này không được an trụ lâu dài trong Chánh pháp. Đó gọi là tai hại thứ ba phát sanh do chỉ tin vào một người.”

Vẫn biết đời sống của người xuất gia thời Đức Phật còn tại thế là không ở một trú xứ nào nhất định. Đức Thế Tôn cùng với chúng tỳ-kheo ở một trú xứ lâu nhất là ba tháng an cư. Sau ba tháng an cư, tất cả đều lên đường đi giáo hóa trong nhân gian. Thế mà, khi nghe tin Đức Thế Tôn không bao nữa sẽ cùng chúng tăng du hành trong nhân gian thì Phật tử Nan-đề đã hụt hẫng: “Bạch Thế Tôn! Hôm nay, tay chân con bủn rủn, đầu óc quay cuồng, những pháp trước đây con được nghe thì nay đều quên mất khi nghe tin Thế Tôn sắp du hành nhân gian. Con chẳng biết khi nào mới được gặp lại Thế Tôn và các tỳ-kheo quen biết” (Kinh Tạp A-hàm, số 858).

Không chỉ Phật tử Nan-đề mà nhiều Phật tửtâm lý như thế! Đó là tâm lý sở hữu, muốn chấp thủ, muốn người thầy, người sư cô là của mình, ở chùa mình, làng mình. Nhưng người xuất gia, sau khi “đã thành tựu Thánh giới, lại học theo hạnh biết đủ, áo vừa đủ che thân, ăn chỉ nhằm nuôi mạng, đi đến đâu đều mang theo y bát, ra đi không luyến nhớ, giống như chim ưng dang rộng đôi cánh bay lượn giữa hư không” (Kinh Trung A-hàm, số 80, kinh Ca-hy-na). Cho nên, nếu hiểu được mục đíchlý tưởng của đời sống người xuất gia, người Phật tử không nên chỉ muốn người thầy là của mình hay làng mình! Nếu vì một lý do nào đó mà người thầy hay người sư cô mình nương tựa đi nơi khác hoằng hóa thì nên hoan hỷ trợ duyên và lấy làm hãnh diện với xứ mạng hoằng pháp lợi sanh của người thầy mình từng nương tựa.

Tai hại thứ tư là, nếu vị được kính tin xả giới hoàn tục thì người kính tin vị kia sẽ suy nghĩ: “Vị ấy là thầy ta, được ta kính trọng, nay đã xả giới và hoàn tục, vậy thì ta còn lý do gì để đi chùa nữa?”

Quả thật, khi một người được kính tin, nương tựa bỗng dưng xả giới, hoàn tục thì quá sốc cho một Phật tử! Song, nếu bình tâm suy nghĩ thì việc một người không tiếp tục đời sống tu tập, xả giới, hoàn tục là điều bình thườnggiới luật cũng không ngăn cản điều đó. Vả chăng, con đường tu tập là đi ngược dòng đời, nên ít người đi và ít người thành công. Chúng ta chỉ nên thương và tiếc cho một người không đi trọn con đường lý tưởng cao thượng mà họ đã chọn.

Trường hợp tai hại thứ năm là khi người được kính tin viên tịch, người kính tin vị này sẽ suy nghĩ: “Vị này là thầy ta, được ta kính trọng, nay đã viên tịch rồi thì ta còn lý do gì để đi chùa nữa? Khi đã không đi chùa nữa thì người này sẽ không cung kính chúng Tăng. Vì không cung kính chúng Tăng nên không còn được nghe pháp. Do không còn nghe pháp nên pháp lành bị suy giảm và không được an trụ lâu dài trong chánh pháp. Đó gọi là tai hại thứ năm phát sanh do chỉ tin vào một người?” (Kinh Tạp A-hàm, số 837).

Khi tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên vào Niết-bàn chính Đức Thế Tôn cũng cảm thấy có sự trống vắng, đại chúng đau buồn. Lúc đó, Đức Thế Tôn dạy: “Các thầy chớ vì Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên vào Niết-bàn mà buồn rầu, khổ não. Ví như cây to, gồm rễ, thân, nhánh, lá, hoa, trái sum suê tươi tốt thì nhánh lớn sẽ gãy trước. Cũng như núi báu lớn thì ngọn nào cao sẽ sụp đổ trước. Cũng vậy, trong đại chúng của Như Lai, hai đại đệ tử là Xá-lợi-phất và Mụckiền-liên sẽ vào Niết-bàn trước. Cho nên, này các Tỳ-kheo! Các thầy chớ buồn rầu, khổ não! Vì không có pháp gì được sanh ra, được hình thành, được tồn tại, là hữu vi, là tan hoại mà không bị thay đổi và hủy diệt? Muốn các pháp hữu vi không bị tan hoại thì điều ấy không thể được! Trước đây Ta đã nói: ‘Mọi vật đáng yêu đều chịu sự chia lìa!’ Chẳng bao lâu nữa, Ta sẽ rời xa.”

Đức Đại Giác Thế Tôn còn rời xa chúng ta thì ai trên đời không phải chết? Vì người thầy mình nương tựa viên tịch mà mình không đi chùa là một lỗi lầm quá lớn!

Tóm lại, người Phật tử không chỉ nên nương tựa vào một người thầy hay một sư cô nào, cho dù người thầy, người cô đó là ai, ở địa vị nào, mà phải cố gắng “tự làm hòn đảo, tự nương tựa chính mình, hãy lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm nơi nương tựa, không lấy chỗ nào khác làm hòn đảo, không nương tựa chỗ nào khác. Nghĩa là sống quán niệm thân trên thân, tinh cần nỗ lực, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu ở thế gian; cũng vậy, sống quán niệm thân trên ngoại thân, nội ngoại thân; cho đến quán niệm thọ, tâm và pháp trên pháp, tinh cần nỗ lực, chánh niệm tỉnh giác, điều phục tham ưu ở thế gian. Đây gọi là tự mình làm hòn đảo, tự mình nương tựa nơi chính mình, lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm nơi nương tựa, không lấy chỗ nào khác làm hòn đảo, không nương tựa chỗ nào khác” (Kinh Tạp A-hàm, số 679).

Đi chùa mà chỉ vì kính tin một người thầy, chỉ vì người thầy đó thôi, ngoài ra không còn biết, không cần biết đến thầy nào khác, không thân cận học hỏi thầy nào khác, thậm chí không xem thầy khác có giá trị gì với mình là một lỗi lầm to lớn của người Phật tử. Năm trường hợpĐức Phật nêu trên chỉ là con số tượng trưng. Có thể còn nhiều trường hợp tai hại hơn nữa khi chỉ kính tin và nương tựa vào một người, nhất là khi người được nương tựa có địa vị, có học vị, có chùa to phật lớn. Bởi vì tin vào người thầy như thế rồi cảm thấy như mình cũng được thơm lây, thấy mình hãnh diện… mà quên mất mục đích của người Phật tử khi thân cận bậc thiện sĩ là để được nghe phápthực hành pháplỗi lầm tai hại mà người Phật tử cần phải ghi nhớ vậy!



[1] Nguyên tác: Bất kiến (不見). Tỳ-kheo phạm tội nhưng ngoan cố không tự thừa nhận, không chịu nhận lỗi, Tăng tác pháp yết-ma bất kiến tội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2234)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2663)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2365)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2677)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2446)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2324)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2415)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2548)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2219)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2585)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3055)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3008)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2572)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2612)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4114)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2780)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3073)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2522)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3010)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2875)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2617)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3193)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2393)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2488)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2693)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2756)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3275)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2561)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2603)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2056)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2829)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2921)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2951)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2725)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2514)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant