Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán Tưởng Khi Tụng Kinh

24 Tháng Tám 202316:32(Xem: 1288)
Quán Tưởng Khi Tụng Kinh

Quán Tưởng Khi Tụng Kinh


Nguyễn Thế Đăng

tung kinh

 

Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.

Tụng kinhđọc tụng lời giác ngộ của Đức Phật và của các đại thánh. Khi đọc tụng, lập đi lập lại các lời của các bậc giác ngộ, giải thoát, tâm người tụng duyên theo nghĩa Kinh và lần lần hiểu được nghĩa Kinh. Duyên theo là thân, khẩu, tâm của người tụng được nâng cấp để dần dần hòa hợp phần nào với thân, khẩu, tâm giác ngộ của chư Phật, chư đại thánh, cho đến khi tương ưng và nối kết. Điều này được gọi là “Ba Mật (thân, khẩu, tâm) tương ưng”. Giải thoát, giác ngộba nghiệp thân, khẩu, tâm của hành giả trở thành thân, khẩu, tâm giải thoát, giác ngộ của Phật.

Trong các kinh của kinh Nhật Tụng, kinh nào cũng bắt đầu bằng bài Cúng Hương Tán Phật:

Nguyện mây diệu hương đây
Cùng khắp mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật
Tôn Pháp, chư Bồ tát
Vô biên chúng Thanh Văn
Cùng tất cả thánh hiền
Duyên khởi từ quang minh
Xứng tánh làm Phật sự
Xông khắp thảy chúng sanh
Đều phát Bồ đề tâm
Xa lìa các vọng nghiệp
Trọn thành vô thượng đạo.

(Nguyện thử diệu hương vân

Biến mãn thập phương giới
Cúng dường nhất thiết Phật
Tôn Pháp, chư Bồ tát
Vô biên Thanh Văn chúng
Cập nhất thiết thánh hiền
Duyên khởi quang minh đài
Xứng tánh tác Phật sự
Phổ huân chư chúng sanh
Giai phát Bồ đề tâm
Viễn ly chư vọng nghiệp
Viên thành vô thượng đạo).

Mây hương (hương vân) được nói nhiều trong Kinh Hoa Nghiêm. Khói của ba cây hương đang cầm để tụng lời nguyện không thể rộng lớn thành mây hương và không thể cùng khắp (biến mãn) mười phương cõi được. Muốn được như thế phải quán tưởng và khi quán tưởng, tâm trở thành mây hương đầy khắp mười phương cõi, nghĩa là tâm trở nên bao la, trùm khắp vũ trụ.

Tiếp tục như thế là việc quán tưởng “tất cả Phật, vô biên thánh hiền”, rồi “duyên khởi từ ánh sáng, xứng tánh làm Phật sự…” Thân quỳ thẳng, miệng xướng tụng, tâm quán tưởng, đây là ba mật tương ưng với đối tượng quán tưởng.

Trong câu đầu tiên xướng lên để lễ lạy: “Nhất tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, khắp pháp giới, quá hiện vị lai mười phương chư Phật, tôn Pháp, hiền thánh tăng thường trụ Tam Bảo”.

(Nhất tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, hiền thánh tăng thường trụ Tam Bảo)

“Nhất tâm” là thiền định của tâm. “Đảnh lễ” là hoạt động trong thiền định của thân. “Tận hư không, khắp pháp giới” là quán tưởng, và theo sự quán tưởng của tâm, tâm ấy cũng mở rộng đến tận hư không, khắp pháp giới, nghĩa là mở rộng đến không gian vô biên. “Quá hiện vị lai mười phương chư Phật… thường trụ Tam Bảo”, nhờ quán tưởng mà người hành lễ mở rộng đến ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, mở rộng về thời gian, cho đến sự vượt ngoài thời gian của Tam Bảo, tức là Tam Bảo thường trụ.

Trong một câu có cả thiền định (Chỉ) và thiền quán (Quán) nâng đỡ, nương tựa nhau khiến thân, khẩu, tâm thành thiền định thiền quán để thâm nhập đối tượng và để thấu hiểu chủ thể và đối tượng là không hai, cùng một bản tánh:

Năng lễ sở lễ tánh Không tịch.
Cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn

Như vậy thì thiền định thiền quán trong khi tụng kinh khiến cho chúng ta đến gần với đối tượng (pháp giới, chư Thánh…), làm quen với đối tượng và hợp nhất với đối tượng ấy. Sự hợp nhất này là thấy biết tất cả cùng một vị, tất cả cùng một bản tánh.

Một điều nữa là khi quán tưởng, chúng ta tịnh hóa cái thấy bình thường bất tịnh của mình để nó trở thành thanh tịnh. Chính cái thấy bất tịnh hàng ngày này đã tạo ra một thế giới bất tịnh, chia cắt, khổ đau mà chúng ta gọi là sanh tử luân hồi.

Nghi thức Sám Hối dựa vào hệ thống Kinh Hoa Nghiêm, cụ thể là trong bài kệ sám hối được lấy gần như nguyên văn của Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Đoạn kệ mở đầu bằng:

Như thế, Như Lai khắp mười phương
Ba đời chư Phật đại hùng lực
Con dùng thân ngữ ý sạch trong
Lễ khắp tất cả không hở sót.
Hạnh nguyện Phổ Hiền lực oai thần
Khắp hiện trước tất cả Như Lai
Mỗi thân khắp hiện mỗi trần thân
Mỗi mỗi lễ khắp mỗi trần Phật
Trong một mảy trần vô số Phật
Mỗi đủ Bồ tát chúng hội trong
Pháp giới vô tận trần đều vậy
Tin sâu chư Phật vốn đầy khắp.

(Sở hữu thập phương thế giới trung
Tam thế nhất thiết Nhân Sư tử
Ngã dĩ thanh tịnh thân, ngữ, ý
Nhất thiết biến lễ tận vô dư.
Phổ Hiền hạnh nguyện oai thần lực
Phổ hiện nhất thiết Như Lai tiền
Nhất thân phục hiện sát trần thân
Nhất nhất biến lễ sát trần Phật.
Ư nhất trần trung trần số Phật
Các xứ Bồ tát chúng hội trung
Vô tận pháp giới trần diệc nhiên
Thâm tín chư Phật giai sung mãn…)
(Kinh Phổ Hiền hạnh nguyện)

Cứ như vậy bài tụng đi hết mười hạnh nguyện Phổ Hiền, hạnh nguyện bao trùm vũ trụ. Chúng ta thấy để đi vào hạnh nguyện Phổ Hiền qua các câu tụng, cần phải quán tưởng. Chẳng hạn, “lễ khắp (biến lễ) tất cả không hở sót”, làm sao hành giả chỉ với một thân mà có thể lễ khắp tất cả Phật, có thể “khắp hiện trước tất cả Như Lai”?

Khi ấy hành giả phải quán tưởng theo Bồ tát Phổ Hiền, “mỗi thân khắp hiện mỗi trần thân” (nhất thân phục hiện sát trần thân), mỗi thân lại hiện nhiều thân như số vi trần (hạt bụi nhỏ) trong một cõi (sát). Và mỗi thân ấy lễ khắp số Đức Phật nhiều như số vi trần của các cõi (Nhất nhất biến lễ sát trần Phật).

Trong một mảy trần có vô số Phật nhiều như số vi trầnnhất trần trung trần số Phật). Trong mỗi vi trần đều có chúng hội Bồ tát (các xứ Bồ tát chúng hội trung). Và pháp giới vô tận vi trần đều như vậy. (Vô tận pháp giới trần diệc nhiên)

Đây là toàn thể thực tại (pháp giới) đảnh lễ toàn thể thực tại (pháp giới), cho nên toàn thể chủ thể hợp nhất với toàn thể đối tượng, trở thành Nhất Chân Pháp giới.

Đọc tụng, quán tưởng và lạy sám hối như vậy, hành giả sẽ dần dần đi vào pháp giới (nhập pháp giới), thấy được pháp giới của chư Phật, pháp giới sự sự vô ngại của pháp giới Hoa Nghiêmđi vào pháp giới ấy, vũ trụ ấy như trong phẩm Nhập pháp giới, phẩm cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm:

Pháp giới vô tận trần đều vậy
Tin sâu chư Phật vốn đầy khắp.
(Vô tận pháp giới trần diệc nhiên

Thâm tín chư Phật giai sung mãn).

Thiền định, thiền quán, quán tưởng không chỉ vào lúc tụng kinh trong chánh điện, mà còn khi ngoài thời ngồi thiền, ngoài chánh điện, tức là thời gian sau thiền định (post meditation), và kéo dài suốt cả ngày.

Thế nên, nhờ thiền địnhquán tưởng trong mọi lúc của cuộc sống hàng ngày, người ta có thể dần dần thoáng thấy, rồi thấy, rồi sống trong pháp giới. Như vậy, biết đem thiền địnhquán tưởng vào đời sống hàng ngày, người ta có thể biến cuộc đời tầm thường hàng ngày thành thế giới thiêng liêng thanh tịnh của các bậc cao cả. 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19019)
Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc...
(Xem: 17815)
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài,...
(Xem: 14039)
Lịch sử chứng minh cho thấy trong xã hội con người có nhiều phát triển tích cực diễn ra do kết quả của lòng từ bi. Chẳng hạn sự hủy diệt thương vụ buôn bán người nô lệ.
(Xem: 14716)
Chỉ có những phương tiện mang tinh thần bất bạo độngthấm nhuần lòng từ bi mới có thể giúp con người đạt đến lý tưởng chân chính, đạt đến cứu cánh tốt đẹp...
(Xem: 14259)
Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ...
(Xem: 16753)
Life is a gift… accept it. Đời là một món quà, hãy nhận lấy. Life is an adventure… pare it. Đời là một cuộc phiêu lưu, hãy giảm dần.
(Xem: 24249)
Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.
(Xem: 20622)
Phật giáo đã bắt rễ dễ dàng trên mảnh đất Việt Nam. Những người nông dân Việt Nam đang đau khổ và khát vọng sự giải thoát, đã tiếp nhận Phật giáo một cách tự nhiên.
(Xem: 18897)
Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ...
(Xem: 21395)
Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở,...
(Xem: 18344)
Ngày nay, tiền có ít nhất bốn chức năng trong việc phục vụ con người. Dù tốt hay xấu, nó là một phương tiện trao đổi không thể thiếu trong xã hội hiện tại.
(Xem: 19976)
Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ…. Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ.
(Xem: 14896)
Bồ đoàn nguyên nghĩa là cái nệm tròn đan bằng cỏ bồ, dùng để lót ngồi hay quỳ lạy. Cỏ bồ có lẽ giống như cỏ năn cỏ lát của nước mình, một thứ vật liệu đơn giản dễ sử dụng.
(Xem: 13021)
Chấp trước, mê chấp, chấp thủ là một trong những gông cùm làm khổ con người. Chính vì hiểu được nỗi khổ này mà Đức Phật luôn dạy các hàng đệ tử là phải phá chấp.
(Xem: 14025)
Nhìn lên bản đồ (kèm theo), ta sẽ thấy Huyền Trang đi theo một đường zigzag rộng lớn, dài hơn nửa đường biên Trung Quốc, vòng quanh nửa nước Ấn Độ...
(Xem: 13199)
Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người.
(Xem: 14066)
Tuổi trẻ học Phật không có mục đích trở thành nhà nghiên cứu Phật học, mà học Phật là tự thực tập khả năng tư duy bén nhạy, linh hoạt, để có thể nhìn thẳng vào bản chất sự sống.
(Xem: 17698)
Mỗi năm, đồng bào Khmer lại tổ chức lễ Sene dolta để con cháu trong gia đình biết ơn bà “chà đôl” và ơn ông “chà ta” đã dày công nuôi dưỡng, sinh thành.
(Xem: 15472)
Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất...
(Xem: 14750)
Với chánh niệm, bạn có thể kiến lập bản thân mình trong hiện tại để có thể chạm vào các kỳ diệu của đời sống đang có sẵn trong khoảnh khắc ấy. Có thể sống được hạnh phúc...
(Xem: 14527)
Với người lạc quan, thế gian này tuyệt đối như cánh hoa hồng. Người bi quan trái lại, thấy nó đầy gai chướng. Nhưng đối với người thực tiễn, thế gian không tuyệt đối tươi đẹp...
(Xem: 17970)
Hòa Thượng luôn luôn ý thức về những trở ngại trên bước đường hoằng hóa lợi sinh của mình, nhưng với sự quyết tâm của mình trong tự lợilợi tha Ôn vẫn bước đi...
(Xem: 22044)
Tôi tình cờ đọc được thơ của Cao Thị Vạn Giả vào lúc còn đang học trung học. Một trong những tiểu thuyết mà tôi từng rất thích là tác phẩm Khung Cửa Hẹp của André Gide, do Bùi Giáng dịch.
(Xem: 19601)
Ngày nay nhớ lại quãng đời làm điệu mà tôi cảm thấy nuối tiếc. Quãng thời gian để chỏm sao mà quá nhiều kỷ niệm dễ thương. Những kỷ niệm đầy đạo tình, đạo vị trong chốn thiền môn.
(Xem: 20730)
Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được...
(Xem: 25196)
Chưa thấy ai/cái gì siêng năng như cái đồng hồ. Gő măi nhịp trường canh đều đặn từ giây này đến giây kế tiếp, từ phút này đến phút kia, từ giờ kia đến giờ nọ… cho đến khi hỏng, hoặc hết năng lượng, hết bin.
(Xem: 16994)
Hoa sen hay Liên hoa là loài hoa thanh khiết thiêng liêngvị trí tôn quý đặc biệt trong giáo nghĩa cùng với sức phát triển bao trùm trên nền văn hóa Phật giáo.
(Xem: 14831)
Trong lý tưởng Bồ tát đạo, có hai ý niệm quan hệ: Đại TríĐại Bi (hay Đại Hạnh). Đại Trí chỉ cho khả năng siêu việt soi thấu bản tính của vạn hữu.
(Xem: 19100)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn.
(Xem: 22042)
Mùa thu lãng đãng trở về đưa theo từng cơn gió nhẹ, dịu mát. Cả bầu trời như trở mình sống lại, để chuyển rơi rụng những chiếc lá vàng.
(Xem: 20746)
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch)
(Xem: 25409)
Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
(Xem: 15897)
Cùng với tượng tròn (mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu trên tập văn số 10) điêu khắc Phật giáo thời Lý, đặc biệt phải kể đến nhiều bức chạm nổi trên đá mà tinh khéo...
(Xem: 15826)
Trong đạo Phật thường nói ý là căn bản của hành động và lời nói. Khi suy nghĩ điều thiện thì lời nói sẽ lành và hành động khắc đẹp. Nghiệp là một thói quen...
(Xem: 20770)
Đọc thi ca chữ Hán và chữ Nôm của Thiền phái Trúc Lâm, có thể nêu lên những cảm hứng sau: Cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm mầu...
(Xem: 17124)
Một khi ta cảm nhận được sự rộng lớn của cuộc sống này, và thấy được khả năng kinh nghiệm sự sống của mình là bao la đến đâu, thì chắc chắn ta sẽ hiểu được sự buông bỏ.
(Xem: 18708)
Trong văn học cũng như trong thực tế, người ta thường đề cập đến mùa thu có lá rơi, nhưng ít ai lại thấy thực tế hơn, chính xác hơn là trong bốn mùa, mùa nào cũng có lá rơi rụng cả.
(Xem: 20074)
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta. Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
(Xem: 39374)
Vào độ thu, khi lúa chín rộ, những cánh đồng bát ngát như một tấm thảm vàng hoe. Nông dân đây đó tụ tập chúc mừng nhau một vụ mùa thắng lợi, và trời đất cũng hòa nhịp trong bầu không khí tràn ngập niềm hạnh phúc ấy.
(Xem: 31578)
Không có nhà tỷ phú nào không kiêu hãnh về tiền bạc, nhưng chính niềm kiêu hãnh ấy, lại tạo ra những sự lo lắng, sợ hãi, nghi ngờbất hạnh cho họ.
(Xem: 30730)
Thuở nhỏ cứ mỗi khi đến rằm tháng bảy, hình ảnh Đại Hiếu Mục Kiền Liên luôn hiện về trong tôi với đoản văn Bông Hồng Cài Aó của Thầy Nhất Hạnh.
(Xem: 36086)
Trong truyền thuyết dân gian phương Đông, rồng có chín con với hình dángsở thích hoàn toàn khác nhau. Các con của rồng được dân gian sử dụng làm linh vật trang trí ở những vị trí, những vật dụng với những ngụ ý đặc biệt khác nhau.
(Xem: 23926)
Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, gọi các Tỷ kheo:Này các Tỷ kheo, đầy đủ năm đức tánh, người nữ nhân hoàn toàn không khả ý đối với người đàn ông.
(Xem: 26599)
Thuở mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc, quẩy gánh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant