Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán Bốn Pháp Giới Của Kinh Hoa Nghiêm

09 Tháng Mười 202317:33(Xem: 1357)
Quán Bốn Pháp Giới Của Kinh Hoa Nghiêm

Quán Bốn Pháp Giới Của Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

 kinh hoa nghiem



Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm. Tông này bắt đầu từ Sơ Tổ Đỗ Thuận(557-640), qua Trí Nghiễm (602-668), đến Pháp Tạng (643-712), và đến Trừng Quán (737-838) thì hoàn thành hệ thống. Bốn pháp giới này tổng quát được Kinh Hoa Nghiêm về mặt triết học và cả mặt thực hành.

Bài này giảng vắn tắt về bốn pháp giới, nhưng trích dẫn và dẫn chứng từ những câu kinh Hoa Nghiêm.

 

Sự là sự vật, sự kiện. Lý là bản tánh của các sự vật. Sự là hiện tượng, lý là bản thể. Sự là tướng, lý là tánh. Sự là sắc, thanh…, lý là Không. Sự là các pháp, lý là pháp tánh. Sự là chân lý tương đối, lý là chân lý tuyệt đối. Sự là các pháp, lý là pháp thân… Đặc biệt, trong Kinh Hoa Nghiêm, lý, chân lý tuyệt đối và tối hậu, là Phật Tỳ Lô Giá Na, tức là Phật QuangMinh Biến Chiếu, Phật Đại Nhật. Phổ Quang Minh, Đại Quang Minh Tạng.

 

1/Pháp giới Sự hay thế giới của sự 

Chữ “sự” này có trong Kinh Hoa Nghiêm, để chỉ các sự vật, các hiện tượng, các sự việc, các pháp.

Tất cả Như Lai trong ba đời

Thần thông hiện khắp thế giới hải

Trong mỗi sự có tất cả Phật 

Các ngài hãy xem những trang nghiêm

Vô lượng Phật trong tất cả sự 

Số đồng chúng sanh khắp thế gian

Vì khiến điều phục hiện thần thông

Dùng đây trang nghiêm thế giới hải

(Phẩm Thế giới thành tựu, thứ 4)

Thế giới của sự là thế giới của kinh nghiệm thường tục, thế giới của năm giác quan và ý thứcThế giới của sự, của các giác quan và ý thức là một thế giới của những khác biệt, bị chia cắt, phân cách nhau. Do đó, nếu chỉ sống trong thế giới này và bám chấp vào những sự vật của thế giới này, người ta sẽ lạc lối vào thế giới vật chấtthế giới của các hình tướng khác biệt nhau. và từ đó, có chia cắt, tách biệt, và khổ đau. Thế giới của sự là thế giới của cái Nhiều, cái Tất cả khác biệt nhau.

Điều đặc biệt của Kinh Hoa Nghiêm là sự, sự vật được nói đến ở cấp độ nhỏ nhất: vi trần (hạt bụi), lỗ chân lông, sợi lông, về mặt không gian, và sát na, khoảnh khắc, một niệm, về mặt thời gianVũ trụpháp giới không chỉ được nhìn ở cấp độ vĩ mô, những cõi, những hành tinh, những ngôi sao, những thiên hà, mà còn ở cấp độ vi mô, những hạt bụi, những sợi lông, những khoảnh khắc, những niệm.

 

2Pháp giới lý hay thế giới của lý

Thế giới của lý là thế giới của bản thểbản tánh của mọi sự (pháp tánh). Đây cũng là thế giới của bản tánh của tâm, của Nhất Tâm. So với sắc thì đây là tánh Không (“sắc tức là Không”). Đây là thế giới của bản tánh, của chân tâm, nơi mọi sự ở trong một sự hài hòa nền tảng của cái Một.

Kinh dạy rất nhiều về tánh Không (Lý), và tánh Không là nền tảng vô tự tánh của mọi hiện tướng, mọi pháp.

Các pháp không chỗ đến 

Cũng không có tác giả

Cũng không từ đâu sanh 

Chẳng thể phân biệt được. 

Tất cả pháp không đến 

Vì thế nên không sanh 

Vì đã không có sanh 

Nên cũng không có diệt. 

Tất cả pháp không sanh 

Tất cả pháp không diệt 

Nếu rõ được như vậy 

Chư Phật thường hiện tiền

(Phẩm Dạ Ma cung kệ tán, thứ 20)

Pháp tánh là tánh Không:

Pháp tánh vốn không tịch

Vô thủ cũng vô kiến

Tánh Không tức là Phật 

Chẳng thể nghĩ lường được. 

(Phẩm Tu Di đảnh kệ tán, thứ 14)

Tánh Không ấy là pháp thân của chư Phật:

Pháp thân vốn vô sanh

Mà thị hiện xuất sanh 

Pháp tánh như hư không

Chư Phật trụ trong đó. 

Không trụ cũng không đi 

Mọi nơi đều thấy Phật 

Vô thểvô sở trụ

Cũng không có chỗ sanh 

Không tướng cũng không hình 

Chỗ hiện đều như bóng. 

(Phẩm Như Lai hiện tướng, thứ 2)

Tánh Không không phải là không có gì, tánh Không là quang minh, ánh sáng, khiến “chỗ hiện đều như bóng”, “như mây nổi giữa không gian”:

Thân Phật thanh tịnh thường tịch diệt 

Quang minh chiếu sáng khắp thế gian

Không tướng không hành không hình bóng 

Ví như mây nổi giữa không gian

Thân Phật vô tận như hư không

Vô tướng vô ngại khắp mười phương

Như huyễn như hóa khắp ứng hiện

Biến Hóa Âm vương đã ngộ được. 

Thân Phật cùng khắp đồng pháp giới

Khắp ứng chúng sanh đều hiện tiền

Các thứ giáo môn thường dạy trao 

Nơi pháp tự tại hay khai ngộ

(Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)

Để thấy và thâm nhập vào pháp thân tánh Không - quang minh này, người ta phải thực hành thiền định và thiền quán theo những câu kinh, và các hạnh ba la mật và các hạnh Bồ tát, nghĩa là bằng tất cả các pháp môn. Tất cả các pháp môn đều được lập trên nền tảng Không - Minh này để đưa hành giả đi vào nền tảng Không - Minh, tức là pháp thân của tất cả chư Phật.

Tóm lại, nói theo ngôn ngữ hiện giờthế giới của sự là thế giới vật chấtthế giới của lý là thế giớitâm linh. Và con người phải tiến hóa lên thế giới tâm linh vượt khỏi thể xác và ý thức để cuộc đờimình không còn bị chia cắt, vững vàng và hạnh phúc hơn, bởi vì thế giới tâm linh là cội nguồn, nền tảng của thế giới vật chất và của con người thường tục.

3/ Pháp giới Lý - Sự vô ngại

“Pháp thân tánh Không, chư Phật trụ trong đó”, pháp thân tánh Không ấy đi vào và ở trong tất cả sự, như hai câu kệ trong phẩm Thế giới thành tựu đã trích ở trên:

Trong mỗi sự có tất cả Phật… 

Vô lượng Phật trong tất cả sự.

Pháp thân Phật là lý, các sự vật là sự, cả hai dung thôngvô ngại với nhau. Khi lý - sự vô ngại, thì lý vốn vô ngại, nên sự cũng vô ngại. Do đó sự rộng mở, bao trùm, thâm nhập khắp lý, cái toàn thể.

Như những bọt biển trên mặt biển, chúng đồng một bản chất nước với đại dương nên bọt biển và đại dương dung thông vô ngại: bọt biển là đại dươngđại dương là bọt biển.

Quán chiếu sâu rộng hơn, người ta sẽ thấy, vì một bọt biển đồng một bản tánh với đại dương, nên một bọt biển bao trùm đại dương và ở khắp trong đại dương. Sự đồng nhất rốt ráo này thuật ngữxưa gọi là “tương tức, tương dung”. Tương tức, tương dung là đồng nhất và dung thông khắp cả.

Trong hệ thống Bát nhã, điều này được nói là, “Sắc (sự) chẳng khác Không (lý), Không chẳng khác sắc. Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Như vậy, một sắc là tất cả Không, nghĩa là một sắc bao trùm tất cả Không và ở trong tất cả Không. Đây gọi là sắc - Không vô ngại, hay sự - lý vô ngại, hay tướng - tánh vô ngại.

 

Sự vô ngại này hiện hữu trong mối tương quan giữa Phật và chúng sanh. Kinh có những câu nói về mối tương quan vô ngại này:

Thân Phật không ngằn mé trụ khắp trong thân của tất cả chúng sanh

(Phẩm Thăng Đâu Suất thiên cung, thứ 23)

hoặc:

Nước biển Phật trí chảy vào trong tâm của tất cả chúng sanh

(Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37)

Đại Bồ tát phải biết tâm mình niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác. Vì chư Phật chẳng lìa tâm này mà thành Chánh Giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, rộng lớn cùng khắp không chỗ nào chẳng có, chẳng lìa, chẳng dứt, không ngừng nghỉ, nhập pháp môn phương tiện chẳng thể nghĩ bàn”.

(Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37)

Sự vô ngại của Phật (lý) và chúng sanh (sự) khiến con đường thành Phật trở nên có thể, và con đường ấy ở ngay nơi thân tâm mỗi người.

Không những Phật vào trong tâm của tất cả chúng sanh, mà còn vào trong tất cả thế gian, trong tất cả sự vật. Do đó thế gian pháp là Phật pháp, đối với những người thấy bản tánh của tất cả mọi sự.

Chư Phật và Bồ tát

Phật phápthế gian pháp

Nếu thấy tánh chân thật

Tất cả không sai khác. 

Như Lai tạng pháp thân

Vào khắp trong thế gian

Dầu ở tại thế gian 

Mà không nhiễm thế pháp

Ví như nước trong sạch

Bóng hình không đến đi 

Pháp thân khắp thế gian

Nên biết cũng như vậy. 

(Phẩm Phổ Hiền Hạnh, thứ 36)

 

Về mặt thực hành lý sự vô ngại, có thể lấy phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 để làm rõ. Tịnh hạnh là hành động thanh tịnh, hành động là sự, được nối kết một cách vô ngại với lý pháp tánh vốn thanh tịnhbất động:

…Nếu vào nhà nên nguyện chúng sanh lên nhà vô thượng, an trụ bất động

Nếu trải giường, tòa ngồi nên nguyện chúng sanh trải mở pháp lành, thấy tướng chân thật

Chánh thân ngồi thẳng nên nguyện chúng sanh ngồi tòa Bồ đềtâm không tham bám. 

Lúc ngồi kiết già nên nguyện chúng sanh căn lành kiên cố được bậc bất động

Tu hành nơi định nơi nên nguyện chúng sanh dùng định điều phục tâm rốt ráo không thừa sót. 

Nếu tu pháp quán nên nguyện chúng sanh thấy lý như thật trọn không tranh cãi. 

Khi xả ngồi thiền nên nguyện chúng sanh quán sát các hành đều quy về tan mất. 

Lúc để chân đứng nên nguyện chúng sanh tâm được giải thoát an trụ bất động…

Nói cách khác, qua hạnh thanh tịnh, người ta nối kết tướng (sự) với tánh (lý), để “toàn tướng là tánh”, “tất cả sự là lý”.

4/ Pháp giới sự sự vô ngại

Sự sự vô ngại là đặc điểm lớn nhất của Kinh Hoa Nghiêm, và trải rộng trong tất cả các phẩm. Khi lý - sự vô ngại đạt đến mức độ cao, pháp giới sự - sự vô ngại sẽ hiển lộ. Để tiếp xúc, cảm nhận phần nào cảnh giới sự sự vô ngại, phải quán theo những câu kinh Hoa Nghiêm.

Sự sự vô ngại là mỗi một sự bao gồm (nhiếp) tất cả các sự khác, và mỗi một sự đi vào (nhập) trong tất cả các sự khác. Một sự khi đã hoàn toàntrọn vẹn là lý, thì sự ấy vẫn giữ nguyên là một sự, nhưng cũng như lý, bao gồm và thâm nhập vào tất cả các sự, đồng thời cũng không phá hủy hình tướng của các sự khác. Một sắc khi đã hoàn toàntrọn vẹn là Không, thì cũng như tánh Khôngbao gồm và thâm nhập vào tất cả các sắc, đồng thời vẫn giữ nguyên là các sắc.

Ở cấp độ này tâm vi tế và vô ngại cùng cực, đến mức vi trầnsát na, và khi ấy tâm là trí huệ Phật.

Như Lai xuất hiện khắp mười phương

Trong mỗi vi trần vô lượng cõi 

Vô lượng cảnh giới đều hiện ra

Đều trụ vô biên vô lượng kiếp

(Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)

Trong mỗi vi trần, mỗi sự đều có tất cả sự (vô lượng cõi, vô lượng cảnh giới) trải dài vô biên vô lượng kiếp, tất cả thời gian. Tất cả không gian, tất cả thời gian đều “trụ” trong một vi trầntrong một niệm, một sát na.

Vô lượng vô số kiếp 

Hiểu đó là một niệm 

Biết niệm cũng vô niệm

Như vậy thấy thế gian

Vô lượng các cõi nước 

Một niệm đều siêu vượt 

Trải qua vô lượng kiếp

Chẳng động lay bổn xứ. 

Bất khả thuyết những kiếp 

Tức là một khoảnh khắc 

Chẳng thấy dài và ngắn 

Rốt ráo pháp sát na

(Phẩm Phổ Hiền hạnh, thứ 36)

Một sự nhỏ nhất như một đầu lông, không những chứa tất cả không gianvô lượng cõi, mà còn chứa tất cả thời gianbất khả thuyết kiếp:

Nơi một đầu lông vô lượng cõi 

Phật, chúng sanh, kiếp, bất khả thuyết

Thấy rõ như vậy đều cùng khắp 

Lầu này của bậc Vô Ngại Nhãn. 

Một niệm nhiếp khắp vô biên kiếp 

Cõi nước, chư Phật và chúng sanh

Trí huệ vô ngại đều rõ biết

Lầu này của bậc Đủ Đức ở. 

(Phẩm Nhập pháp giới, thứ 39)

Muốn “thấy rõ như vậy” phải có “Vô Ngại nhãn”, “trí huệ vô ngại”. Con mắt vô ngạitrí huệ vô ngại ở đây không chỉ thấy biết sự vô ngại của lý sự vô ngại, mà còn vi tế hơn, sâu rộng hơn để thấy sự vô ngại của pháp giới sự sự vô ngại.

Đây là cái thấy sự sự vô ngại của vị đã vào lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của đức DiLặc:

Phật tử ở lầu này 

Biết rõ hạnh nguyện Phật 

Bồ tát hạnh tu hành

Căn, tánh, dục chúng sanh

Phật tử ở lầu này 

Thấy trong một vi trần

Vô lượng cõi đạo tràng

Chúng sanh và các kiếp. 

Như trong một vi trần

Tất cả trần đều vậy 

Mọi sự đều đầy đủ 

Xứ xứ đều vô ngại

Phật tử trụ ở đây 

Quán khắp tất cả pháp 

Chúng sanh, cõi và đời 

Vô sanhvô sở hữu

Quán sát các chúng sanh

Chánh pháp và Như Lai

Quốc độ cùng chí nguyện

Tam thế đều bình đẳng… 

(Phẩm Nhập pháp giới, thứ 39)

Hai bài kệ trên là lời ca ngợi của Thiện Tài đồng tử về đức Di Lặc và lầu gác ngài ở. Trong lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng này hiển bày cảnh giới sự sự vô ngại.

Trong Kinh, pháp giới sự sự vô ngại được thí dụ nhiều lần bằng màn lưới ngọc của trời Đế thíchLưới trời Đế thích làm bằng những viên ngọc, làm bằng một chất, là tánh Không. Ngọc sáng sạch (Không – Minh) cho nên có thể phản chiếu. Như vậy một sự vật “ảnh hiện” (hiện bóng) trong một viên ngọc thì đồng thời cũng hiện bóng trong tất cả các viên ngọc khác. Và các viên ngọc hiện bóng lẫn nhau để trong một viên ngọc có tất cả các bóng hiện của tất cả các viên ngọc khác.

Mỗi viên ngọc vẫn là một viên ngọc, nhưng trong nó phản chiếu tất cả những các viên ngọc, điều này gọi là “nhiếp”, nắm lấy, thu lấy. Đồng thời một viên ngọc ấy phản chiếu, nhập vào trong tất cả các viên ngọc, điều này gọi là “nhập”. Một nhiếp tất cả và một nhập vào tất cả.

Sự tương tức tương nhập với nhau này tạo thành một thế giới sự sự vô ngại. Một duyên khởi với và nơi tất cả, và tất cả duyên khởi với và nơi một. Như vậy pháp giới sự sự vô ngại là trùng trùngduyên khởitrùng trùng vô tận. Đây là vũ trụ như màn lưới ngọc của trời Đế Thích.

Trong pháp giới sự sự vô ngạiPhật Tỳ Lô Giá Na ở khắp tất cả không giancho đến trong mỗi vi trần, và ở khắp tất cả thời gian cho đến trong mỗi niệm, nên Giác ngộ (thành Chánh giác) của Phật cũng có trong mỗi vi trần và mỗi niệm. Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37 nói về giác ngộ của Phật như vầy:

Chư Phật tử! Lúc Như Lai thành Chánh giác thì đắc được thân lượng đồng tất cả chúng sanh, đắc được thân lượng đồng tất cả pháp, đắc được thân lượng đồng tất cả cõi, đắc được thân lượng đồng tất cả ba đời, đắc được thân lượng đồng tất cả Phật… Như thân đắc được, ngữ và tâm cũng lại như vậy. 

Chư Phật tử! Khi Như Lai thành Chánh giác, ở trong thân, Như Lai thấy khắp tất cả chúng sanhthành Chánh giáccho đến thấy khắp tất cả chúng sanh hiện ở trong Niết bàn… 

Chư Phật tử! Đại Bồ tát phải biết, trong một lỗ chân lông thân Như Lai, có tất cả số chúng sanhđồng với thân chư Phật. Vì thân Như Lai thành Chánh giác rốt ráo không sanh diệt. Như một lỗ lông khắp pháp giới, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy. Phải biết không có chút chỗ nào mà không có thân Phật. Vì Như Lai thành Chánh giác, không có nơi nào mà không đến. 

Chư Phật tử! Đại Bồ tát phải biết, tâm mình niệm niệm thường có Phật thành Chánh giác. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai chẳng lìa tâm này mà thành Chánh giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Chánh giác, rộng lớn cùng khắp, không chỗ nào không có, chẳng lìa, chẳng dứt, không ngừng nghỉ, vào pháp môn phương tiện không thể nghĩ bàn”. 

Khi Như Lai giác ngộ thì tất cả pháp giới cũng đồng giác ngộ, từ mỗi vi trần, mỗi niệm cho đếnmười phương chúng sanh đồng thành Chánh giác:

Ở trên một đầu lông rất nhỏ

Có bất khả thuyết những Phổ Hiền

Tất cả đầu lông đều cũng vậy

Mỗi mỗi cho đến khắp pháp giới…

Mười phương tất cả các chúng sanh

Tất cả đồng thời thành Chánh giác

Ở trong một Phật hay hiện khắp

Bất khả ngôn thuyết tất cả thân.

(Phẩm A tăng kỳ thứ 30)

Đây gọi là giác ngộ pháp giới sự sự vô ngại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2419)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1852)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1924)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1791)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2168)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2146)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2287)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1778)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2086)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1794)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1775)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1952)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1949)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1605)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1787)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2123)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1870)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2466)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1774)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1775)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1740)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2187)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 2008)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2152)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1686)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2303)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1631)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1925)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1824)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1874)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1716)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2461)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2173)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2113)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1924)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2317)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1882)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1966)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2209)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1724)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1985)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 2001)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2215)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1980)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1822)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1806)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1827)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1943)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2237)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1778)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant