Quán Bốn Pháp Giới Của Kinh Hoa Nghiêm
Nguyễn Thế Đăng
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm. Tông này bắt đầu từ Sơ Tổ Đỗ Thuận(557-640), qua Trí Nghiễm (602-668), đến Pháp Tạng (643-712), và đến Trừng Quán (737-838) thì hoàn thành hệ thống. Bốn pháp giới này tổng quát được Kinh Hoa Nghiêm về mặt triết học và cả mặt thực hành.
Bài này giảng vắn tắt về bốn pháp giới, nhưng trích dẫn và dẫn chứng từ những câu kinh Hoa Nghiêm.
Sự là sự vật, sự kiện. Lý là bản tánh của các sự vật. Sự là hiện tượng, lý là bản thể. Sự là tướng, lý là tánh. Sự là sắc, thanh…, lý là Không. Sự là các pháp, lý là pháp tánh. Sự là chân lý tương đối, lý là chân lý tuyệt đối. Sự là các pháp, lý là pháp thân… Đặc biệt, trong Kinh Hoa Nghiêm, lý, chân lý tuyệt đối và tối hậu, là Phật Tỳ Lô Giá Na, tức là Phật QuangMinh Biến Chiếu, Phật Đại Nhật. Phổ Quang Minh, Đại Quang Minh Tạng.
1/Pháp giới Sự hay thế giới của sự
Chữ “sự” này có trong Kinh Hoa Nghiêm, để chỉ các sự vật, các hiện tượng, các sự việc, các pháp.
Tất cả Như Lai trong ba đời
Thần thông hiện khắp thế giới hải
Trong mỗi sự có tất cả Phật
Các ngài hãy xem những trang nghiêm.
…
Vô lượng Phật trong tất cả sự
Số đồng chúng sanh khắp thế gian
Vì khiến điều phục hiện thần thông
Dùng đây trang nghiêm thế giới hải.
(Phẩm Thế giới thành tựu, thứ 4)
Thế giới của sự là thế giới của kinh nghiệm thường tục, thế giới của năm giác quan và ý thức. Thế giới của sự, của các giác quan và ý thức là một thế giới của những khác biệt, bị chia cắt, phân cách nhau. Do đó, nếu chỉ sống trong thế giới này và bám chấp vào những sự vật của thế giới này, người ta sẽ lạc lối vào thế giới vật chất, thế giới của các hình tướng khác biệt nhau. và từ đó, có chia cắt, tách biệt, và khổ đau. Thế giới của sự là thế giới của cái Nhiều, cái Tất cả khác biệt nhau.
Điều đặc biệt của Kinh Hoa Nghiêm là sự, sự vật được nói đến ở cấp độ nhỏ nhất: vi trần (hạt bụi), lỗ chân lông, sợi lông, về mặt không gian, và sát na, khoảnh khắc, một niệm, về mặt thời gian. Vũ trụ, pháp giới không chỉ được nhìn ở cấp độ vĩ mô, những cõi, những hành tinh, những ngôi sao, những thiên hà, mà còn ở cấp độ vi mô, những hạt bụi, những sợi lông, những khoảnh khắc, những niệm.
2/ Pháp giới lý hay thế giới của lý
Thế giới của lý là thế giới của bản thể, bản tánh của mọi sự (pháp tánh). Đây cũng là thế giới của bản tánh của tâm, của Nhất Tâm. So với sắc thì đây là tánh Không (“sắc tức là Không”). Đây là thế giới của bản tánh, của chân tâm, nơi mọi sự ở trong một sự hài hòa nền tảng của cái Một.
Kinh dạy rất nhiều về tánh Không (Lý), và tánh Không là nền tảng vô tự tánh của mọi hiện tướng, mọi pháp.
Các pháp không chỗ đến
Cũng không có tác giả
Cũng không từ đâu sanh
Chẳng thể phân biệt được.
Tất cả pháp không đến
Vì thế nên không sanh
Vì đã không có sanh
Nên cũng không có diệt.
Tất cả pháp không sanh
Tất cả pháp không diệt
Nếu rõ được như vậy
Chư Phật thường hiện tiền.
(Phẩm Dạ Ma cung kệ tán, thứ 20)
Pháp tánh là tánh Không:
Pháp tánh vốn không tịch
Vô thủ cũng vô kiến
Tánh Không tức là Phật
Chẳng thể nghĩ lường được.
(Phẩm Tu Di đảnh kệ tán, thứ 14)
Tánh Không ấy là pháp thân của chư Phật:
Pháp thân vốn vô sanh
Mà thị hiện xuất sanh
Pháp tánh như hư không
Chư Phật trụ trong đó.
Không trụ cũng không đi
Mọi nơi đều thấy Phật
Vô thể, vô sở trụ
Cũng không có chỗ sanh
Không tướng cũng không hình
Chỗ hiện đều như bóng.
(Phẩm Như Lai hiện tướng, thứ 2)
Tánh Không không phải là không có gì, tánh Không là quang minh, ánh sáng, khiến “chỗ hiện đều như bóng”, “như mây nổi giữa không gian”:
Thân Phật thanh tịnh thường tịch diệt
Quang minh chiếu sáng khắp thế gian
Không tướng không hành không hình bóng
Ví như mây nổi giữa không gian.
Thân Phật vô tận như hư không
Vô tướng vô ngại khắp mười phương
Như huyễn như hóa khắp ứng hiện
Biến Hóa Âm vương đã ngộ được.
Thân Phật cùng khắp đồng pháp giới
Khắp ứng chúng sanh đều hiện tiền
Các thứ giáo môn thường dạy trao
Nơi pháp tự tại hay khai ngộ.
(Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)
Để thấy và thâm nhập vào pháp thân tánh Không - quang minh này, người ta phải thực hành thiền định và thiền quán theo những câu kinh, và các hạnh ba la mật và các hạnh Bồ tát, nghĩa là bằng tất cả các pháp môn. Tất cả các pháp môn đều được lập trên nền tảng Không - Minh này để đưa hành giả đi vào nền tảng Không - Minh, tức là pháp thân của tất cả chư Phật.
Tóm lại, nói theo ngôn ngữ hiện giờ, thế giới của sự là thế giới vật chất; thế giới của lý là thế giớitâm linh. Và con người phải tiến hóa lên thế giới tâm linh vượt khỏi thể xác và ý thức để cuộc đờimình không còn bị chia cắt, vững vàng và hạnh phúc hơn, bởi vì thế giới tâm linh là cội nguồn, nền tảng của thế giới vật chất và của con người thường tục.
3/ Pháp giới Lý - Sự vô ngại
“Pháp thân tánh Không, chư Phật trụ trong đó”, pháp thân tánh Không ấy đi vào và ở trong tất cả sự, như hai câu kệ trong phẩm Thế giới thành tựu đã trích ở trên:
Trong mỗi sự có tất cả Phật…
Vô lượng Phật trong tất cả sự.
Pháp thân Phật là lý, các sự vật là sự, cả hai dung thông, vô ngại với nhau. Khi lý - sự vô ngại, thì lý vốn vô ngại, nên sự cũng vô ngại. Do đó sự rộng mở, bao trùm, thâm nhập khắp lý, cái toàn thể.
Như những bọt biển trên mặt biển, chúng đồng một bản chất nước với đại dương nên bọt biển và đại dương dung thông vô ngại: bọt biển là đại dương, đại dương là bọt biển.
Quán chiếu sâu rộng hơn, người ta sẽ thấy, vì một bọt biển đồng một bản tánh với đại dương, nên một bọt biển bao trùm đại dương và ở khắp trong đại dương. Sự đồng nhất rốt ráo này thuật ngữxưa gọi là “tương tức, tương dung”. Tương tức, tương dung là đồng nhất và dung thông khắp cả.
Trong hệ thống Bát nhã, điều này được nói là, “Sắc (sự) chẳng khác Không (lý), Không chẳng khác sắc. Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Như vậy, một sắc là tất cả Không, nghĩa là một sắc bao trùm tất cả Không và ở trong tất cả Không. Đây gọi là sắc - Không vô ngại, hay sự - lý vô ngại, hay tướng - tánh vô ngại.
Sự vô ngại này hiện hữu trong mối tương quan giữa Phật và chúng sanh. Kinh có những câu nói về mối tương quan vô ngại này:
“Thân Phật không ngằn mé trụ khắp trong thân của tất cả chúng sanh”
(Phẩm Thăng Đâu Suất thiên cung, thứ 23)
hoặc:
“Nước biển Phật trí chảy vào trong tâm của tất cả chúng sanh”
(Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37)
“Đại Bồ tát phải biết tâm mình niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác. Vì chư Phật chẳng lìa tâm này mà thành Chánh Giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, rộng lớn cùng khắp không chỗ nào chẳng có, chẳng lìa, chẳng dứt, không ngừng nghỉ, nhập pháp môn phương tiện chẳng thể nghĩ bàn”.
(Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37)
Sự vô ngại của Phật (lý) và chúng sanh (sự) khiến con đường thành Phật trở nên có thể, và con đường ấy ở ngay nơi thân tâm mỗi người.
Không những Phật vào trong tâm của tất cả chúng sanh, mà còn vào trong tất cả thế gian, trong tất cả sự vật. Do đó thế gian pháp là Phật pháp, đối với những người thấy bản tánh của tất cả mọi sự.
Chư Phật và Bồ tát
Phật pháp, thế gian pháp
Nếu thấy tánh chân thật
Tất cả không sai khác.
Như Lai tạng pháp thân
Vào khắp trong thế gian
Dầu ở tại thế gian
Mà không nhiễm thế pháp.
Ví như nước trong sạch
Bóng hình không đến đi
Pháp thân khắp thế gian
Nên biết cũng như vậy.
(Phẩm Phổ Hiền Hạnh, thứ 36)
Về mặt thực hành lý sự vô ngại, có thể lấy phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 để làm rõ. Tịnh hạnh là hành động thanh tịnh, hành động là sự, được nối kết một cách vô ngại với lý pháp tánh vốn thanh tịnh, bất động:
“…Nếu vào nhà nên nguyện chúng sanh lên nhà vô thượng, an trụ bất động.
Nếu trải giường, tòa ngồi nên nguyện chúng sanh trải mở pháp lành, thấy tướng chân thật.
Chánh thân ngồi thẳng nên nguyện chúng sanh ngồi tòa Bồ đề, tâm không tham bám.
Lúc ngồi kiết già nên nguyện chúng sanh căn lành kiên cố được bậc bất động.
Tu hành nơi định nơi nên nguyện chúng sanh dùng định điều phục tâm rốt ráo không thừa sót.
Nếu tu pháp quán nên nguyện chúng sanh thấy lý như thật trọn không tranh cãi.
Khi xả ngồi thiền nên nguyện chúng sanh quán sát các hành đều quy về tan mất.
Lúc để chân đứng nên nguyện chúng sanh tâm được giải thoát an trụ bất động…”
Nói cách khác, qua hạnh thanh tịnh, người ta nối kết tướng (sự) với tánh (lý), để “toàn tướng là tánh”, “tất cả sự là lý”.
4/ Pháp giới sự sự vô ngại
Sự sự vô ngại là đặc điểm lớn nhất của Kinh Hoa Nghiêm, và trải rộng trong tất cả các phẩm. Khi lý - sự vô ngại đạt đến mức độ cao, pháp giới sự - sự vô ngại sẽ hiển lộ. Để tiếp xúc, cảm nhận phần nào cảnh giới sự sự vô ngại, phải quán theo những câu kinh Hoa Nghiêm.
Sự sự vô ngại là mỗi một sự bao gồm (nhiếp) tất cả các sự khác, và mỗi một sự đi vào (nhập) trong tất cả các sự khác. Một sự khi đã hoàn toàn, trọn vẹn là lý, thì sự ấy vẫn giữ nguyên là một sự, nhưng cũng như lý, bao gồm và thâm nhập vào tất cả các sự, đồng thời cũng không phá hủy hình tướng của các sự khác. Một sắc khi đã hoàn toàn, trọn vẹn là Không, thì cũng như tánh Không, bao gồm và thâm nhập vào tất cả các sắc, đồng thời vẫn giữ nguyên là các sắc.
Ở cấp độ này tâm vi tế và vô ngại cùng cực, đến mức vi trần, sát na, và khi ấy tâm là trí huệ Phật.
Như Lai xuất hiện khắp mười phương
Trong mỗi vi trần vô lượng cõi
Vô lượng cảnh giới đều hiện ra
Đều trụ vô biên vô lượng kiếp.
(Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)
Trong mỗi vi trần, mỗi sự đều có tất cả sự (vô lượng cõi, vô lượng cảnh giới) trải dài vô biên vô lượng kiếp, tất cả thời gian. Tất cả không gian, tất cả thời gian đều “trụ” trong một vi trần, trong một niệm, một sát na.
Vô lượng vô số kiếp
Hiểu đó là một niệm
Biết niệm cũng vô niệm
Như vậy thấy thế gian.
Vô lượng các cõi nước
Một niệm đều siêu vượt
Trải qua vô lượng kiếp
Chẳng động lay bổn xứ.
Bất khả thuyết những kiếp
Tức là một khoảnh khắc
Chẳng thấy dài và ngắn
Rốt ráo pháp sát na.
(Phẩm Phổ Hiền hạnh, thứ 36)
Một sự nhỏ nhất như một đầu lông, không những chứa tất cả không gian, vô lượng cõi, mà còn chứa tất cả thời gian, bất khả thuyết kiếp:
Nơi một đầu lông vô lượng cõi
Phật, chúng sanh, kiếp, bất khả thuyết
Thấy rõ như vậy đều cùng khắp
Lầu này của bậc Vô Ngại Nhãn.
Một niệm nhiếp khắp vô biên kiếp
Cõi nước, chư Phật và chúng sanh
Trí huệ vô ngại đều rõ biết
Lầu này của bậc Đủ Đức ở.
(Phẩm Nhập pháp giới, thứ 39)
Muốn “thấy rõ như vậy” phải có “Vô Ngại nhãn”, “trí huệ vô ngại”. Con mắt vô ngại, trí huệ vô ngại ở đây không chỉ thấy biết sự vô ngại của lý sự vô ngại, mà còn vi tế hơn, sâu rộng hơn để thấy sự vô ngại của pháp giới sự sự vô ngại.
Đây là cái thấy sự sự vô ngại của vị đã vào lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của đức DiLặc:
Phật tử ở lầu này
Biết rõ hạnh nguyện Phật
Bồ tát hạnh tu hành
Căn, tánh, dục chúng sanh.
Phật tử ở lầu này
Thấy trong một vi trần
Vô lượng cõi đạo tràng
Chúng sanh và các kiếp.
Như trong một vi trần
Tất cả trần đều vậy
Mọi sự đều đầy đủ
Xứ xứ đều vô ngại.
Phật tử trụ ở đây
Quán khắp tất cả pháp
Chúng sanh, cõi và đời
Vô sanh, vô sở hữu.
Quán sát các chúng sanh
Chánh pháp và Như Lai
Quốc độ cùng chí nguyện
Tam thế đều bình đẳng…
(Phẩm Nhập pháp giới, thứ 39)
Hai bài kệ trên là lời ca ngợi của Thiện Tài đồng tử về đức Di Lặc và lầu gác ngài ở. Trong lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng này hiển bày cảnh giới sự sự vô ngại.
Trong Kinh, pháp giới sự sự vô ngại được thí dụ nhiều lần bằng màn lưới ngọc của trời Đế thích. Lưới trời Đế thích làm bằng những viên ngọc, làm bằng một chất, là tánh Không. Ngọc sáng sạch (Không – Minh) cho nên có thể phản chiếu. Như vậy một sự vật “ảnh hiện” (hiện bóng) trong một viên ngọc thì đồng thời cũng hiện bóng trong tất cả các viên ngọc khác. Và các viên ngọc hiện bóng lẫn nhau để trong một viên ngọc có tất cả các bóng hiện của tất cả các viên ngọc khác.
Mỗi viên ngọc vẫn là một viên ngọc, nhưng trong nó phản chiếu tất cả những các viên ngọc, điều này gọi là “nhiếp”, nắm lấy, thu lấy. Đồng thời một viên ngọc ấy phản chiếu, nhập vào trong tất cả các viên ngọc, điều này gọi là “nhập”. Một nhiếp tất cả và một nhập vào tất cả.
Sự tương tức tương nhập với nhau này tạo thành một thế giới sự sự vô ngại. Một duyên khởi với và nơi tất cả, và tất cả duyên khởi với và nơi một. Như vậy pháp giới sự sự vô ngại là trùng trùngduyên khởi, trùng trùng vô tận. Đây là vũ trụ như màn lưới ngọc của trời Đế Thích.
Trong pháp giới sự sự vô ngại, Phật Tỳ Lô Giá Na ở khắp tất cả không gian, cho đến trong mỗi vi trần, và ở khắp tất cả thời gian cho đến trong mỗi niệm, nên Giác ngộ (thành Chánh giác) của Phật cũng có trong mỗi vi trần và mỗi niệm. Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37 nói về giác ngộ của Phật như vầy:
“Chư Phật tử! Lúc Như Lai thành Chánh giác thì đắc được thân lượng đồng tất cả chúng sanh, đắc được thân lượng đồng tất cả pháp, đắc được thân lượng đồng tất cả cõi, đắc được thân lượng đồng tất cả ba đời, đắc được thân lượng đồng tất cả Phật… Như thân đắc được, ngữ và tâm cũng lại như vậy.
Chư Phật tử! Khi Như Lai thành Chánh giác, ở trong thân, Như Lai thấy khắp tất cả chúng sanhthành Chánh giác, cho đến thấy khắp tất cả chúng sanh hiện ở trong Niết bàn…
Chư Phật tử! Đại Bồ tát phải biết, trong một lỗ chân lông thân Như Lai, có tất cả số chúng sanhđồng với thân chư Phật. Vì thân Như Lai thành Chánh giác rốt ráo không sanh diệt. Như một lỗ lông khắp pháp giới, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy. Phải biết không có chút chỗ nào mà không có thân Phật. Vì Như Lai thành Chánh giác, không có nơi nào mà không đến.
Chư Phật tử! Đại Bồ tát phải biết, tâm mình niệm niệm thường có Phật thành Chánh giác. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai chẳng lìa tâm này mà thành Chánh giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Chánh giác, rộng lớn cùng khắp, không chỗ nào không có, chẳng lìa, chẳng dứt, không ngừng nghỉ, vào pháp môn phương tiện không thể nghĩ bàn”.
Khi Như Lai giác ngộ thì tất cả pháp giới cũng đồng giác ngộ, từ mỗi vi trần, mỗi niệm cho đếnmười phương chúng sanh đồng thành Chánh giác:
Ở trên một đầu lông rất nhỏ
Có bất khả thuyết những Phổ Hiền
Tất cả đầu lông đều cũng vậy
Mỗi mỗi cho đến khắp pháp giới…
Mười phương tất cả các chúng sanh
Tất cả đồng thời thành Chánh giác
Ở trong một Phật hay hiện khắp
Bất khả ngôn thuyết tất cả thân.
(Phẩm A tăng kỳ thứ 30)
Đây gọi là giác ngộ pháp giới sự sự vô ngại.
- Tag :
- Nguyễn Thế Đăng