Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán Bốn Pháp Giới Của Kinh Hoa Nghiêm

09 Tháng Mười 202317:33(Xem: 1360)
Quán Bốn Pháp Giới Của Kinh Hoa Nghiêm

Quán Bốn Pháp Giới Của Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

 kinh hoa nghiem



Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm. Tông này bắt đầu từ Sơ Tổ Đỗ Thuận(557-640), qua Trí Nghiễm (602-668), đến Pháp Tạng (643-712), và đến Trừng Quán (737-838) thì hoàn thành hệ thống. Bốn pháp giới này tổng quát được Kinh Hoa Nghiêm về mặt triết học và cả mặt thực hành.

Bài này giảng vắn tắt về bốn pháp giới, nhưng trích dẫn và dẫn chứng từ những câu kinh Hoa Nghiêm.

 

Sự là sự vật, sự kiện. Lý là bản tánh của các sự vật. Sự là hiện tượng, lý là bản thể. Sự là tướng, lý là tánh. Sự là sắc, thanh…, lý là Không. Sự là các pháp, lý là pháp tánh. Sự là chân lý tương đối, lý là chân lý tuyệt đối. Sự là các pháp, lý là pháp thân… Đặc biệt, trong Kinh Hoa Nghiêm, lý, chân lý tuyệt đối và tối hậu, là Phật Tỳ Lô Giá Na, tức là Phật QuangMinh Biến Chiếu, Phật Đại Nhật. Phổ Quang Minh, Đại Quang Minh Tạng.

 

1/Pháp giới Sự hay thế giới của sự 

Chữ “sự” này có trong Kinh Hoa Nghiêm, để chỉ các sự vật, các hiện tượng, các sự việc, các pháp.

Tất cả Như Lai trong ba đời

Thần thông hiện khắp thế giới hải

Trong mỗi sự có tất cả Phật 

Các ngài hãy xem những trang nghiêm

Vô lượng Phật trong tất cả sự 

Số đồng chúng sanh khắp thế gian

Vì khiến điều phục hiện thần thông

Dùng đây trang nghiêm thế giới hải

(Phẩm Thế giới thành tựu, thứ 4)

Thế giới của sự là thế giới của kinh nghiệm thường tục, thế giới của năm giác quan và ý thứcThế giới của sự, của các giác quan và ý thức là một thế giới của những khác biệt, bị chia cắt, phân cách nhau. Do đó, nếu chỉ sống trong thế giới này và bám chấp vào những sự vật của thế giới này, người ta sẽ lạc lối vào thế giới vật chấtthế giới của các hình tướng khác biệt nhau. và từ đó, có chia cắt, tách biệt, và khổ đau. Thế giới của sự là thế giới của cái Nhiều, cái Tất cả khác biệt nhau.

Điều đặc biệt của Kinh Hoa Nghiêm là sự, sự vật được nói đến ở cấp độ nhỏ nhất: vi trần (hạt bụi), lỗ chân lông, sợi lông, về mặt không gian, và sát na, khoảnh khắc, một niệm, về mặt thời gianVũ trụpháp giới không chỉ được nhìn ở cấp độ vĩ mô, những cõi, những hành tinh, những ngôi sao, những thiên hà, mà còn ở cấp độ vi mô, những hạt bụi, những sợi lông, những khoảnh khắc, những niệm.

 

2Pháp giới lý hay thế giới của lý

Thế giới của lý là thế giới của bản thểbản tánh của mọi sự (pháp tánh). Đây cũng là thế giới của bản tánh của tâm, của Nhất Tâm. So với sắc thì đây là tánh Không (“sắc tức là Không”). Đây là thế giới của bản tánh, của chân tâm, nơi mọi sự ở trong một sự hài hòa nền tảng của cái Một.

Kinh dạy rất nhiều về tánh Không (Lý), và tánh Không là nền tảng vô tự tánh của mọi hiện tướng, mọi pháp.

Các pháp không chỗ đến 

Cũng không có tác giả

Cũng không từ đâu sanh 

Chẳng thể phân biệt được. 

Tất cả pháp không đến 

Vì thế nên không sanh 

Vì đã không có sanh 

Nên cũng không có diệt. 

Tất cả pháp không sanh 

Tất cả pháp không diệt 

Nếu rõ được như vậy 

Chư Phật thường hiện tiền

(Phẩm Dạ Ma cung kệ tán, thứ 20)

Pháp tánh là tánh Không:

Pháp tánh vốn không tịch

Vô thủ cũng vô kiến

Tánh Không tức là Phật 

Chẳng thể nghĩ lường được. 

(Phẩm Tu Di đảnh kệ tán, thứ 14)

Tánh Không ấy là pháp thân của chư Phật:

Pháp thân vốn vô sanh

Mà thị hiện xuất sanh 

Pháp tánh như hư không

Chư Phật trụ trong đó. 

Không trụ cũng không đi 

Mọi nơi đều thấy Phật 

Vô thểvô sở trụ

Cũng không có chỗ sanh 

Không tướng cũng không hình 

Chỗ hiện đều như bóng. 

(Phẩm Như Lai hiện tướng, thứ 2)

Tánh Không không phải là không có gì, tánh Không là quang minh, ánh sáng, khiến “chỗ hiện đều như bóng”, “như mây nổi giữa không gian”:

Thân Phật thanh tịnh thường tịch diệt 

Quang minh chiếu sáng khắp thế gian

Không tướng không hành không hình bóng 

Ví như mây nổi giữa không gian

Thân Phật vô tận như hư không

Vô tướng vô ngại khắp mười phương

Như huyễn như hóa khắp ứng hiện

Biến Hóa Âm vương đã ngộ được. 

Thân Phật cùng khắp đồng pháp giới

Khắp ứng chúng sanh đều hiện tiền

Các thứ giáo môn thường dạy trao 

Nơi pháp tự tại hay khai ngộ

(Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)

Để thấy và thâm nhập vào pháp thân tánh Không - quang minh này, người ta phải thực hành thiền định và thiền quán theo những câu kinh, và các hạnh ba la mật và các hạnh Bồ tát, nghĩa là bằng tất cả các pháp môn. Tất cả các pháp môn đều được lập trên nền tảng Không - Minh này để đưa hành giả đi vào nền tảng Không - Minh, tức là pháp thân của tất cả chư Phật.

Tóm lại, nói theo ngôn ngữ hiện giờthế giới của sự là thế giới vật chấtthế giới của lý là thế giớitâm linh. Và con người phải tiến hóa lên thế giới tâm linh vượt khỏi thể xác và ý thức để cuộc đờimình không còn bị chia cắt, vững vàng và hạnh phúc hơn, bởi vì thế giới tâm linh là cội nguồn, nền tảng của thế giới vật chất và của con người thường tục.

3/ Pháp giới Lý - Sự vô ngại

“Pháp thân tánh Không, chư Phật trụ trong đó”, pháp thân tánh Không ấy đi vào và ở trong tất cả sự, như hai câu kệ trong phẩm Thế giới thành tựu đã trích ở trên:

Trong mỗi sự có tất cả Phật… 

Vô lượng Phật trong tất cả sự.

Pháp thân Phật là lý, các sự vật là sự, cả hai dung thôngvô ngại với nhau. Khi lý - sự vô ngại, thì lý vốn vô ngại, nên sự cũng vô ngại. Do đó sự rộng mở, bao trùm, thâm nhập khắp lý, cái toàn thể.

Như những bọt biển trên mặt biển, chúng đồng một bản chất nước với đại dương nên bọt biển và đại dương dung thông vô ngại: bọt biển là đại dươngđại dương là bọt biển.

Quán chiếu sâu rộng hơn, người ta sẽ thấy, vì một bọt biển đồng một bản tánh với đại dương, nên một bọt biển bao trùm đại dương và ở khắp trong đại dương. Sự đồng nhất rốt ráo này thuật ngữxưa gọi là “tương tức, tương dung”. Tương tức, tương dung là đồng nhất và dung thông khắp cả.

Trong hệ thống Bát nhã, điều này được nói là, “Sắc (sự) chẳng khác Không (lý), Không chẳng khác sắc. Sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Như vậy, một sắc là tất cả Không, nghĩa là một sắc bao trùm tất cả Không và ở trong tất cả Không. Đây gọi là sắc - Không vô ngại, hay sự - lý vô ngại, hay tướng - tánh vô ngại.

 

Sự vô ngại này hiện hữu trong mối tương quan giữa Phật và chúng sanh. Kinh có những câu nói về mối tương quan vô ngại này:

Thân Phật không ngằn mé trụ khắp trong thân của tất cả chúng sanh

(Phẩm Thăng Đâu Suất thiên cung, thứ 23)

hoặc:

Nước biển Phật trí chảy vào trong tâm của tất cả chúng sanh

(Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37)

Đại Bồ tát phải biết tâm mình niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác. Vì chư Phật chẳng lìa tâm này mà thành Chánh Giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Đẳng Chánh Giác, rộng lớn cùng khắp không chỗ nào chẳng có, chẳng lìa, chẳng dứt, không ngừng nghỉ, nhập pháp môn phương tiện chẳng thể nghĩ bàn”.

(Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37)

Sự vô ngại của Phật (lý) và chúng sanh (sự) khiến con đường thành Phật trở nên có thể, và con đường ấy ở ngay nơi thân tâm mỗi người.

Không những Phật vào trong tâm của tất cả chúng sanh, mà còn vào trong tất cả thế gian, trong tất cả sự vật. Do đó thế gian pháp là Phật pháp, đối với những người thấy bản tánh của tất cả mọi sự.

Chư Phật và Bồ tát

Phật phápthế gian pháp

Nếu thấy tánh chân thật

Tất cả không sai khác. 

Như Lai tạng pháp thân

Vào khắp trong thế gian

Dầu ở tại thế gian 

Mà không nhiễm thế pháp

Ví như nước trong sạch

Bóng hình không đến đi 

Pháp thân khắp thế gian

Nên biết cũng như vậy. 

(Phẩm Phổ Hiền Hạnh, thứ 36)

 

Về mặt thực hành lý sự vô ngại, có thể lấy phẩm Tịnh Hạnh thứ 11 để làm rõ. Tịnh hạnh là hành động thanh tịnh, hành động là sự, được nối kết một cách vô ngại với lý pháp tánh vốn thanh tịnhbất động:

…Nếu vào nhà nên nguyện chúng sanh lên nhà vô thượng, an trụ bất động

Nếu trải giường, tòa ngồi nên nguyện chúng sanh trải mở pháp lành, thấy tướng chân thật

Chánh thân ngồi thẳng nên nguyện chúng sanh ngồi tòa Bồ đềtâm không tham bám. 

Lúc ngồi kiết già nên nguyện chúng sanh căn lành kiên cố được bậc bất động

Tu hành nơi định nơi nên nguyện chúng sanh dùng định điều phục tâm rốt ráo không thừa sót. 

Nếu tu pháp quán nên nguyện chúng sanh thấy lý như thật trọn không tranh cãi. 

Khi xả ngồi thiền nên nguyện chúng sanh quán sát các hành đều quy về tan mất. 

Lúc để chân đứng nên nguyện chúng sanh tâm được giải thoát an trụ bất động…

Nói cách khác, qua hạnh thanh tịnh, người ta nối kết tướng (sự) với tánh (lý), để “toàn tướng là tánh”, “tất cả sự là lý”.

4/ Pháp giới sự sự vô ngại

Sự sự vô ngại là đặc điểm lớn nhất của Kinh Hoa Nghiêm, và trải rộng trong tất cả các phẩm. Khi lý - sự vô ngại đạt đến mức độ cao, pháp giới sự - sự vô ngại sẽ hiển lộ. Để tiếp xúc, cảm nhận phần nào cảnh giới sự sự vô ngại, phải quán theo những câu kinh Hoa Nghiêm.

Sự sự vô ngại là mỗi một sự bao gồm (nhiếp) tất cả các sự khác, và mỗi một sự đi vào (nhập) trong tất cả các sự khác. Một sự khi đã hoàn toàntrọn vẹn là lý, thì sự ấy vẫn giữ nguyên là một sự, nhưng cũng như lý, bao gồm và thâm nhập vào tất cả các sự, đồng thời cũng không phá hủy hình tướng của các sự khác. Một sắc khi đã hoàn toàntrọn vẹn là Không, thì cũng như tánh Khôngbao gồm và thâm nhập vào tất cả các sắc, đồng thời vẫn giữ nguyên là các sắc.

Ở cấp độ này tâm vi tế và vô ngại cùng cực, đến mức vi trầnsát na, và khi ấy tâm là trí huệ Phật.

Như Lai xuất hiện khắp mười phương

Trong mỗi vi trần vô lượng cõi 

Vô lượng cảnh giới đều hiện ra

Đều trụ vô biên vô lượng kiếp

(Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, thứ 1)

Trong mỗi vi trần, mỗi sự đều có tất cả sự (vô lượng cõi, vô lượng cảnh giới) trải dài vô biên vô lượng kiếp, tất cả thời gian. Tất cả không gian, tất cả thời gian đều “trụ” trong một vi trầntrong một niệm, một sát na.

Vô lượng vô số kiếp 

Hiểu đó là một niệm 

Biết niệm cũng vô niệm

Như vậy thấy thế gian

Vô lượng các cõi nước 

Một niệm đều siêu vượt 

Trải qua vô lượng kiếp

Chẳng động lay bổn xứ. 

Bất khả thuyết những kiếp 

Tức là một khoảnh khắc 

Chẳng thấy dài và ngắn 

Rốt ráo pháp sát na

(Phẩm Phổ Hiền hạnh, thứ 36)

Một sự nhỏ nhất như một đầu lông, không những chứa tất cả không gianvô lượng cõi, mà còn chứa tất cả thời gianbất khả thuyết kiếp:

Nơi một đầu lông vô lượng cõi 

Phật, chúng sanh, kiếp, bất khả thuyết

Thấy rõ như vậy đều cùng khắp 

Lầu này của bậc Vô Ngại Nhãn. 

Một niệm nhiếp khắp vô biên kiếp 

Cõi nước, chư Phật và chúng sanh

Trí huệ vô ngại đều rõ biết

Lầu này của bậc Đủ Đức ở. 

(Phẩm Nhập pháp giới, thứ 39)

Muốn “thấy rõ như vậy” phải có “Vô Ngại nhãn”, “trí huệ vô ngại”. Con mắt vô ngạitrí huệ vô ngại ở đây không chỉ thấy biết sự vô ngại của lý sự vô ngại, mà còn vi tế hơn, sâu rộng hơn để thấy sự vô ngại của pháp giới sự sự vô ngại.

Đây là cái thấy sự sự vô ngại của vị đã vào lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của đức DiLặc:

Phật tử ở lầu này 

Biết rõ hạnh nguyện Phật 

Bồ tát hạnh tu hành

Căn, tánh, dục chúng sanh

Phật tử ở lầu này 

Thấy trong một vi trần

Vô lượng cõi đạo tràng

Chúng sanh và các kiếp. 

Như trong một vi trần

Tất cả trần đều vậy 

Mọi sự đều đầy đủ 

Xứ xứ đều vô ngại

Phật tử trụ ở đây 

Quán khắp tất cả pháp 

Chúng sanh, cõi và đời 

Vô sanhvô sở hữu

Quán sát các chúng sanh

Chánh pháp và Như Lai

Quốc độ cùng chí nguyện

Tam thế đều bình đẳng… 

(Phẩm Nhập pháp giới, thứ 39)

Hai bài kệ trên là lời ca ngợi của Thiện Tài đồng tử về đức Di Lặc và lầu gác ngài ở. Trong lầu gác Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng này hiển bày cảnh giới sự sự vô ngại.

Trong Kinh, pháp giới sự sự vô ngại được thí dụ nhiều lần bằng màn lưới ngọc của trời Đế thíchLưới trời Đế thích làm bằng những viên ngọc, làm bằng một chất, là tánh Không. Ngọc sáng sạch (Không – Minh) cho nên có thể phản chiếu. Như vậy một sự vật “ảnh hiện” (hiện bóng) trong một viên ngọc thì đồng thời cũng hiện bóng trong tất cả các viên ngọc khác. Và các viên ngọc hiện bóng lẫn nhau để trong một viên ngọc có tất cả các bóng hiện của tất cả các viên ngọc khác.

Mỗi viên ngọc vẫn là một viên ngọc, nhưng trong nó phản chiếu tất cả những các viên ngọc, điều này gọi là “nhiếp”, nắm lấy, thu lấy. Đồng thời một viên ngọc ấy phản chiếu, nhập vào trong tất cả các viên ngọc, điều này gọi là “nhập”. Một nhiếp tất cả và một nhập vào tất cả.

Sự tương tức tương nhập với nhau này tạo thành một thế giới sự sự vô ngại. Một duyên khởi với và nơi tất cả, và tất cả duyên khởi với và nơi một. Như vậy pháp giới sự sự vô ngại là trùng trùngduyên khởitrùng trùng vô tận. Đây là vũ trụ như màn lưới ngọc của trời Đế Thích.

Trong pháp giới sự sự vô ngạiPhật Tỳ Lô Giá Na ở khắp tất cả không giancho đến trong mỗi vi trần, và ở khắp tất cả thời gian cho đến trong mỗi niệm, nên Giác ngộ (thành Chánh giác) của Phật cũng có trong mỗi vi trần và mỗi niệm. Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37 nói về giác ngộ của Phật như vầy:

Chư Phật tử! Lúc Như Lai thành Chánh giác thì đắc được thân lượng đồng tất cả chúng sanh, đắc được thân lượng đồng tất cả pháp, đắc được thân lượng đồng tất cả cõi, đắc được thân lượng đồng tất cả ba đời, đắc được thân lượng đồng tất cả Phật… Như thân đắc được, ngữ và tâm cũng lại như vậy. 

Chư Phật tử! Khi Như Lai thành Chánh giác, ở trong thân, Như Lai thấy khắp tất cả chúng sanhthành Chánh giáccho đến thấy khắp tất cả chúng sanh hiện ở trong Niết bàn… 

Chư Phật tử! Đại Bồ tát phải biết, trong một lỗ chân lông thân Như Lai, có tất cả số chúng sanhđồng với thân chư Phật. Vì thân Như Lai thành Chánh giác rốt ráo không sanh diệt. Như một lỗ lông khắp pháp giới, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy. Phải biết không có chút chỗ nào mà không có thân Phật. Vì Như Lai thành Chánh giác, không có nơi nào mà không đến. 

Chư Phật tử! Đại Bồ tát phải biết, tâm mình niệm niệm thường có Phật thành Chánh giác. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai chẳng lìa tâm này mà thành Chánh giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Chánh giác, rộng lớn cùng khắp, không chỗ nào không có, chẳng lìa, chẳng dứt, không ngừng nghỉ, vào pháp môn phương tiện không thể nghĩ bàn”. 

Khi Như Lai giác ngộ thì tất cả pháp giới cũng đồng giác ngộ, từ mỗi vi trần, mỗi niệm cho đếnmười phương chúng sanh đồng thành Chánh giác:

Ở trên một đầu lông rất nhỏ

Có bất khả thuyết những Phổ Hiền

Tất cả đầu lông đều cũng vậy

Mỗi mỗi cho đến khắp pháp giới…

Mười phương tất cả các chúng sanh

Tất cả đồng thời thành Chánh giác

Ở trong một Phật hay hiện khắp

Bất khả ngôn thuyết tất cả thân.

(Phẩm A tăng kỳ thứ 30)

Đây gọi là giác ngộ pháp giới sự sự vô ngại.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1754)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2334)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 2043)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1826)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2404)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1992)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2124)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2303)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2623)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2645)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2138)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2631)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1934)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 2057)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2389)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2905)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1824)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1722)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1929)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1785)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2274)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2453)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2140)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1931)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1839)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 2021)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1783)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2784)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1903)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2243)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2195)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2553)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1875)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2045)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1919)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2093)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2672)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3791)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2345)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2363)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1722)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 2039)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2392)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2358)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2206)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3195)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2185)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2578)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2101)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 2032)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant