Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính chất hòa bình của Phật giáo

26 Tháng Chín 201000:00(Xem: 13062)
Tính chất hòa bình của Phật giáo

Thế giớichúng ta đang sống luôn luôn nảy sinh những tranh chấp và bất ổn. Trong quá khứ đã từng xảy ra không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh tàn khốc, đẫm máu, làm thiệt hại vô số sinh mạng và tài sản. Hiện nay, tuy tình hình có hơi lắng dịu và hòa hoãn, nhưng chưa phải đã hoàn toàn ổn định. Do thế, hòa bình vẫn là một khát vọng muôn đời của toàn thể nhân loại. Đạo Phật vốn được tiếng là đạo từ bi, cứu khổ; thế thì, trong lĩnh vực hòa bình, Phật giáo có những giải pháp gì được xem là hữu hiệu và khả thi hay không? Đó là điều mà bài viết này muốn gia tâm tìm hiểu.

1. Nguyên nhân của mọi sự tranh chấp

Xuyên qua lịch sử, chúng ta thấy rằng nguyên nhân của các cuộc đấu tranh là do lòng tham dục của con người gây ra, khiến cho gia đình đổ vỡ, xã hội nhiễu nhương và nhân loại đau khổ. Chính điều đó đã được Đức Thế Tôn chứng ngộ và khai thị cho chúng ta:

"Này các Tỷ kheo, do dục vọng làm duyên, nên vua tranh chấp với vua, Sát đế lỵ tranh chấp với Sát đế lỵ, Bà la môn tranh chấp với Bà la môn, gia chủ tranh chấp với gia chủ, cha mẹ, anh em, bè bạn tranh chấp lẫn nhau. Khi chúng đã dấn thân vào sự tranh chấp, chúng đánh nhau bằng tay, ném nhau bằng đá,đập nhau bằng gậy và chém nhau bằng gươm. Do đó, chúng bị tử thương, hoặc ngắc ngư quằn quại"(Trung bộ, kinh13).

Sự tranh chấp sở dĩ xảy ra, nếu không do lòng dục thúc đẩy, thì cũng do sự cuồng tín cố chấp gây nên, như một hôm Đức Phật khuyến cáo một thanh niên Bà la môn:

"Người trí giữ gìn chân lý không nên đi đến kết luận:

"Chỉ có đây là chân lý, còn mọi điều kiện khác là sai lầm". Một người có lòng tin, nếu y nói: "Đây là lòng tin của tôi". Như thế là y giữ gìn chân lý. Nhưng từ đấy y không thể tiến đến kết luận tuyệt đối:"Chỉ có đây là chân lý. ngoài ra đều sai lầm". "Rồi Đức Phật dạy tiếp: "Chấp chặt vào một quan điểm và khinh miệt những quan điểm khác cho là thua kém, hành động như thế người trí gọi là mù quáng"(W Rahula, "What the Buddha taught").

Quốc vương xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) là Ajatasattu (A Xà Thế) muốn mở mang vương quốc của mình bằng tham vọng chinh phục xứ Vajji (Bạc Kỳ). Vua sai đại thần Vũ Xá đến thỉnh ý Đức Phật về việc chinh phục này. Đức Phật rất tế nhị. Ngài không trả lời câu hỏi trực tiếp của nhà vua, mà Ngài gián tiếp trả lời bằng cách hỏi Tôn giả Anada tình hình của xứ Vajji bằng 7 câu hỏi:

- "Này A Nan, dân Vajji có hội họp thường không?

- Dân Vajji có đoàn kết khi hội họp, đoàn kết khi giải tán và đoàn kết khi làm việc không?

- Dân Vajji có sống đúng với truyền thống của dân tộc, và tôn trọng những luật pháp đã được ban hành từ thời xưa không?

- Dân Vajji có tôn kính những bâc trưởng lão trong nước và nghe theo lời dạy của những vị này không?

- Dân Vajji có cưỡng ép những thiếu nữphụ nữ bắt họ phải sống chung với mình không?

- Dân Vajji có thường xuyên dâng lễ ở các nơi thờ tự không?

- Dân Vajji có bảo vệtôn kính các bậc A la hán khiến các vị ấy tìm đến ở trong xứ để xứ sở được an lạc không?"

Bảy pháp này có thể tóm tắt bằng những danh từ thời đại:

1. Sinh hoạt dân chủ,

2. Tình đoàn kết dân tộc,

3. Nguyên tắc pháp trị,

4. Sự hòa hợp các thế hệ,

5. Tôn trọng phụ nữ,

6. Tôn kính các tín ngưỡng, và

7. Ưu đãi các bậc minh triết.

Đây là 7 nguyên tắc giúp quốc gia hưng thịnh và tránh diệt vong. Sau khi nghe Tôn giả A Nan trả lời rằng dân Vajji đã thực hiện 7 pháp này rất tốt đẹp, Đức Phật kết luận:"Thế thì dân Vajji sẽ phú cường, không ai có thể chinh phục được".

2. Hậu quả của những sự tranh chấp

Do tham vọng mù quáng thúc đẩy, kẻ có thế lực thường dùng sức mạnh để đàn áp kẻ yếu và bắt họ phải khuất phục. Những kẻ bại trận khổ nhục đã đành mà những người chiến thắng do lửa tham thiêu đốt và oán thù chồng chất cũng chẳng an lạc gì hơn:

"Chiến thắng gây hận thù,

Thất bại chuốc khổ đau,

Ai từ bỏ thắng bại,

An tịnh liền theo sau". (Tương Ưng, I-102)

Những kẻ bạo tàn gây đau khổ cho người khác mà mong hưởng được an vui, điều đó không bao giờ có:

"Ác nghiệp chưa chín muồi,

Kẻ ngu tưởng đường mật.

Ác nghiệp khi chín thật,

Kẻ ngu chuốc khổ đau". (Pháp Cú, 69)

Vì thế, Đức Phật đã dạy khá rõ, kẻ làm ác dù trốn bất cứ phương trời nào cũng không thể thoát được luật nhân quả:

"Không trời cao biển rộng,

Không hang động, núi rừng.

Đã tạo nghiệp ác độc,

Trên đời hết chỗ dung". (Pháp Cú,127)

Có một kẻ thù nguy hiểm hơn bất cứ kẻ thù nào khác trên đời này, đó là tâm niệm ác của ta. Những kẻ thù ở bên ngoài, chúng ta còn có hy vọng tránh được, chứ chính ta đã gây nên tội ác thì không sao tránh khỏi quả báo:

"Kẻ thù hại kẻ thù,

Oan gia hại oan gia,

Còn thua tâm niệm ác,

Do chính ta hại ta". (Pháp Cú, 42)

Thế nên chỉ có ta mới cứu được ta:

"Mẹ cha hay bà con,

Không làm gì được cả.

Chính nhờ tâm nguyện lành,

Đưa ta lên cao cả". (Pháp Cú, 43)

Luật nhân quả có vay có trả, rất công bằng, không thiên vị bất cứ người nào:

"Giết người bị người giết,

Thắng người, bị người thắng.

Mắng người, bị người mắng.

Hại người bị người hại,

Do nghiệp lực diễn tiến,

Hại người, thành hại mình". (Tương Ưng, I-103)

Do vậy, những ai muốn sống an lạc tránh mọi sợ hãi, và khổ đau, hãy theo lời Phật dạy, từ bỏ sát sanh:

"Này gia chủ do nguyên nhân sát sanh mà gây ra sợ hãi, hận thù ngay trong hiện tại, và sợ hãi, hận thù trong tương lai, khiến cho tâm cảm thụ khổ ưu. Từ bỏ sát sanhchấm dứt sợ hãi, hận thù trong hiện tại, chấm dứt sợ hãi, hận thù trong tương lai, khiến cho tâm không còn cảm thọ khổ ưu. Do đó, ai từ bỏ sát sanh, người ấy thoát khỏi mọi sợ hãi và hận thù". (Tăng Chi IIIB. 176).

3. Cần phải từ bỏ hận thù và tàn bạo

Trong cuộc đời này, muốn sống được an vui người ta phải từ bỏ hận thù. Bởi vì chúng ta không bao giờ có thể dùng hận thù để tiêu diệt hận thù, mà chỉ có thể dùng đức độ khoan dung mới tiêu diệt được hận thù:

"Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó hại tôi, cướp tôi,

Ai ôm niềm hận ấy,

Hận thù không thể nguôi". (Pháp Cú, 3)

"Hận thù tiêu diệt hận thù

Đời này không thể có,

Từ bi diệt hận thù,

định luật nghìn thu". (Pháp Cú, 5)

Đem tình thương đáp lại hận thù, đó là một việc làm khó khăn vô cùng. Cho nên người nào làm được như vậy sẽ được nhân loại cúi đầu khâm phục: hơn thế nữa người nào tự thắng được mình, đó mới là kẻ chiến thắng tối thượng:

"Dù tại bãi chiến trường,

Thắng nghìn nghìn quân địch,

Không bằng tự thắng mình,

Chiến công ấy vô địch" (Pháp Cú,103)

Tự thắng mình có nghĩa là tự nhiếp phục cái tâm tham dục, ti tiện, hận thù hay gây ác nghiệp của chính mình. Người nào tâm không nghĩ ác, thân không làm ác, thì người ấy sẽ không bị ác nghiệp hoành hành:

"Bàn tay không thương tích,

Cầm thuốc độc không sao,

Người không làm việc ác,

Không bị ác nhiễm vào" (Pháp Cú, 124)

Muốn sống an vui hạnh phúc phải biết quý trông mạng sống của mình, mà quý mạng sống của mình thì không được sát sanh và tán trợ sát sanh:

"Hình phạt ai cũng kinh,

Sinh mệnh ai cũng tiếc,

Lấy ta suy ra người,

Chớ giết, chớ bảo giết". (Pháp Cú,130)

Chẳng những không sát hại sanh linh mà còn phải bao dung độ lượng đối với những kẻ thù của mình; làm được như vậy, chúng ta mới hưởng được niềm an vui thanh thản:

"Lành thay chúng ta sống

Từ ái giữa hận thù!

Giữa bao kẻ hận thù

Ta sống không hận thù!" (Pháp Cú, 197)

Im lặngtha thứ đời sống sẽ trở nên êm đẹp biết bao!

"Nếu tự mình im lặng,

Như chuông nứt nhiều đường,

Người ấy chứng Niết bàn,

Hận thù không còn nữa". (Pháp Cú, 134)

Nhưng trên đời này hạng người im lặng ít nói, khiêm tốn thật là hiếm hoi:

"Hiếm thấy ai ở đời,

Biết tự chế khiêm tốn,

Tránh mọi lời thương tổn,

Như ngựa hiền tránh roi". (Pháp Cú, 143)

4. Độ lượng khoan dung trước những công kích

4a. Đức nhẫn nhục của Đức Phật

Một thanh niên Bà la môn tên Ambattha đi đến hội chúng của dòng họ Thích Ca - dòng họ của Phật - không được hội chúng này tiếp đón niềm nở, nên khi gặp Đức Thế Tôn, ông đã chỉ trích dòng họ Thích Ca một cách kịch liệt:

"Này Gotama, thô bạodòng họ Thích Ca, khinh suất là dòng họ Thích Ca, hung dữ là dòng họ Thích Ca. Dòng họ Thích Ca thuộc thành phần đê tiện không kính nhường Bà la môn, không lễ bái Bà la môn, không tôn trọng Bà la môn. Này Gotama, như vậy thật không phải lẽ, thật không đúng pháp".

Trước những lời chỉ trích thô lỗ, đầy vẻ giận dữ của Ambattha, Đức Phật đáp lại một cách từ hòa bình thản:

"Này Ambattha, đối với việc sơ suất nhỏ mọn của dòng họ Thích Ca, thật không đáng để cho ngươi phải bực mình, nặng lời chỉ trích đến như thế".( Trường Bộ kinh I.90)

Người hộ trì chánh pháp phải biết nhẫn nhục. Nhẫn nhục là biểu hiện sức mạnh nội tâm. Nhẫn nhục cò là phương thuốc thần hiệu để trị bệnh mình và bệnh người. Nhẫn nhục đúng lúc có thể cảm hóa người khác dễ dàng. Do đó, người hiểu chánh pháp ít khi tranh chấp với đời, như Đức Phật đã dạy trong Tương Ưng Bộ kinh:

"Này các Tỳ kheo, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời là tranh luận với Ta. Người nói pháp không tranh luận với một ai ở đời. Cái gì người trí ở đời chấp nhận là "không", Ta cũng nói là "không". Cái gì người trí ở đời chấp nhận là "có", Ta cũng nói là "có". (Tương Ưng Bộ kinh, III.165).

Sống không tranh chấp là nhờ có trí tuệ hiểu rõ lẽ phải trái, không bướng bỉnh, ngoan cố, mà luôn luôn cảm thông với tha nhân nên dễ dàng mở lượng bao dung với tất cả mọi người.

4b. Lòng khoan dung của Phật

Một hôm Bà la môn Akkosaka Bharadvàja đùng đùng nổi giận đến mắng nhiếc Đức Phật thậm tệ. Khi y trút cơn phẫn nộ xong, Thế tôn ôn tồn hỏi:

-- Này Bà la môn, nếu như bà con thân hữu đến thăm ngươi, người sửa soạn cỗ bàn thiết đãi mà họ không nhận thì sao?

-- Nếu họ không nhận thì các thức ăn thức uống ấy sẽ về lại chúng tôi.

-- Cũng vậy, này Bà la môn, nay ngươi phỉ báng ta, mắng nhiếc ta, gây lộn với ta, nhưng ta không nhận; thế thì những sự việc ấy hẳn sẽ về lại với người thôi (Tương Ưng I.199)

Đối với những người có ác tâm hủy báng, Đức Phật thường kham nhẫn chịu đựng, hoặc khoan dung tha thứ, hoặc dùng những lời lẽ ôn hòa, nhã nhặn để đối thoại. Một phương pháp tuyệt diệu nhất của Phật là nêu ví dụ cụ thể để làm sáng tỏ vấn đề, khiến cho kẻ đối thoại thấy rõ được sai lầm, do đó bày tỏ thái độ thành khẩnphục thiện. Nhờ đức nhẫn nhục và lòng khoan dung mà Phật đã cảm hóa được biết bao người như thế.

5. Trang trải từ tâm đối với muôn loài

Sứ mệnh của một Như Lai sứ giả là đem lại thanh bình an lạc cho tất cả chúng sinh, nhưng muốn cho muôn loài được hạnh phúc thật sự thì chính bản thân mình trước hết phải tu tập từ tâm. Chính phương pháp tu tập này, Đức Đạo Sư đã ân cần trao truyền cho các đệ tử:

"Này các Tỳ kheo, trong khi tu tập lòng từ, vị Tỳ kheo phải trang trải từ tâm khắp cả bốn phương, cùng khắp vô biên giới, với tâm từ quảng đại, không hận, không sân; đồng thời cũng trang trải bi tâm, hỷ tâm và xả tâm như thế đến với tất cả muôn loài" (Trung Bộ kinh I.38).

Là người, ai cũng muốn cộng đồng sinh hoạt chung sống hòa bình. Nhưng muốn chung sống hòa bình, trước hết mỗi người phải từ bỏ tánh ích kỷ vị lợi của chính mình, mà tuân theo những quy luật xã hội để đem lại an vui lợi lạc cho tập thể. Chính Tôn giả Anuruddhà đã phát biểu về nguyên tắc sống chung hòa bình ấy, khi bậc Đạo Sư hỏi thầy:

-- Này Anuruddhà, các ngươi sống hòa bình hoan hỷ với nhau như nước hòa với sữa, sống nhìn nhau với cặp mắt thiện cảm như thế nào?

-- Bạch Thế Tôn ở đây chúng con nghĩ như sau: "Thật vô cùng lợi ích đối với ta, khi ta được sống chung với các vị đồng phạm hạnh như vậy".Bạch Thế Tôn, do vậy, đối với các vị đồng phạm hạnh này, con khởi lên ý nghĩ, lời nói và hành động từ bi khi họ có mặt cũng như khi họ vắng mặt. Bạch Thế Tôn, con nghĩ như sau:"Ta hãy từ bỏ tâm vị kỷ của ta và sống thuận theo theo tâm của các Tôn giả này". Do vậy, Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân nhưng giống như đồng một tâm. (Trường Bộ kinh I.200).

Người có lòng từ chẳng những dễ hòa mình cảm thông với đồng loại mà còn hưởng được niềm an lạc ngay trong khi ngủ:

"Khi thức không lo âu,

Khi ngủ không sợ hãi,

Phiền não nào động tâm,

Ngày đêm đều thoải mái". (Tương Ưng1,tr.136)

Ai cũng mong muốn đời sống của mình được hạnh phúc, an vui, nhưng ít ai nỗ lực từ tâm. Nếu ai tụ tập từ tâm thuần thục người ấy sẽ hưởng được 11 lợi ích:

"Này các Tỳ kheo, từ tâm giải thoát được tu tập sung mãn, sẽ tác thành cỗ xe, thành căn cứ địa, nếu được tích lũy và phát triển sẽ thành tựu 11 lợi ích sau đây:

- Ngủ an lạc;

- thức an lạc;

- không ác mộng;

- được loài người ngưỡng mộ;

- được phi nhân nhân ái kính;

- được chư thiên bảo hộ;

- không bị lửa, thuốc độc, đao kiếm xúc chạm;

- được thiền định mau chóng;

- sắc mặt tươi sáng;

- khi mệnh chung không hôn ám;

- nếu chưa thể nhập thượng pháp (đắc quả A la hán) thì sẽ sinh lên Phạm Thiên giới".

(Tăng Chi Bộ, IIIB.300).

"Chính nhờ lòng từ bi mà Phật giáo đã được truyền bá khắp một vùng rộng lớn ở Châu Á một cách êm đẹp, không bao giờ có sự can thiệp của vũ lực hay uy thế chính trị, không một giọt máu nào phải đổ trong khi truyền giáo; không một cuộc chém giết nào xảy ra nhân danh Đạo Phật, hay nhân danh Đức Thế Tôn, thật là hãnh diện biết bao!" (Tiến sĩ K.N.Jayatilleke).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10280)
Trong kiếp sống nhân sinh ai cũng phải trãi qua những thăng trầm của cuộc sống để kinh nghiệm được những bài học vố giá của trường đời.
(Xem: 9445)
Tính viên mãn vốn sẵn là một chủ đề chính trong kinh Hoa Nghiêm. Sự viên mãn vốn sẵn có này biểu hiện khắp cả vũ trụ, trong thế giới vĩ mô và thế giới vi mô.
(Xem: 9613)
Nếu chúng ta có một trái tim tràn đầy tình thương yêu thì có phải sẽ mang lại bình an không? Một trái tim tràn đầy thương yêu mà ta đang nói tới có nghĩa là gì?
(Xem: 11256)
Dân gian ta có câu: “Dầu xây chin bậc Phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho môt người”.
(Xem: 9569)
Ni Sư Thubten Chodron thường chú trọng đến việc áp dụng những điều Phật dạy vào đời sống hằng ngày của chúng ta
(Xem: 10031)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân.
(Xem: 9306)
Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền (Theravāda), mùa an cư của chư Tăng bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 âm lịchkết thúc vào ngày rằm tháng 9 âm lịch.
(Xem: 8930)
Sinh sống có chánh niệm là một trong các quan niệm của đạo Phật nói về thái độ cẩn trọngsáng suốt của người xuất gia trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 11232)
Hiện nay có rất nhiều người trên thế giới thực hành ăn chay. Có người ăn chay trường, có người ăn chay kỳ, có người ăn chay tùy thích…
(Xem: 11320)
Tâm kinh Bát-nhã có câu nói nổi tiếng đề cập phương pháp giải thoát khổ đau rất truyền thống của đạo Phật Nguyên thủy, được nhấn mạnh trong các bản kinh Nikàya.
(Xem: 9563)
Để có hạnh phúc cho mình, người ta quên bẵng đi những thiệt thòi, tổn hại và khổ đau của kẻ khác. Đến khi khổ đau, mất mát, thì oán trách, đổ lỗi cho tha nhân.
(Xem: 8207)
Nếu chúng ta biết cố gắng làm việc tốt và chuyển tâm xấu ác thành tâm tốt thì quả sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt.
(Xem: 9514)
Chánh mạngphương kế sinh nhai chân chánh (còn gọi là phương tiện sống chân chánh). Trong Kinh DI GIÁO Đức Phật dạy các Tỳ kheo về Phương tiện thanh tịnh:
(Xem: 9750)
”Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”.
(Xem: 9152)
Chắc hẳn quý vị đều nghĩ rằng sau khi đạt được Giác Ngộ thì Đức Phật nhất định phải có một cuộc sống thật thoải mái, có đúng thế hay chăng?
(Xem: 9673)
Đức Phật đã từng nói rằng: "Nầy các Tỳ Kheo, bất cứ ai muốn chăm sóc ta, người ấy phải muốn chăm sóc người bệnh"
(Xem: 9668)
Bái sám nhiều mà tội diệt phước sinh là không đúng về nhân quả.
(Xem: 8137)
Giáo pháp do Đức Phật dạy có rất nhiều nhưng trọng tâm vẫn là Bát Chánh đạo.
(Xem: 9070)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu,
(Xem: 22489)
Mặt trời hừng đông. Ngày mới lại đến. Buổi sáng bắt đầu cho một ngày mới của đời sống.
(Xem: 9334)
Thiền là một cách huấn luyện tâm, do đó, nếu chúng ta càng thực tập nhiều, càng thực tập đều đặn, chúng ta càng nhìn thấy sự tiến bộ của chúng ta.
(Xem: 17781)
Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao.
(Xem: 10105)
Đức Phật dạy: “Nhứt thiết duy tâm tạo” tất cả đều do tâm tạo, “...Duy ngã độc tôn” “cái ta” là tối cao và quan trọng nhất, quyết định tất cả,
(Xem: 10632)
Đức Phật nêu lên Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất và gọi Sự Thật này là dukkha. Thuật ngữ dukkha trong tiếng Pa-li thường được dịch là "khổ đau" (suffering)
(Xem: 10844)
Phát Bồ-đề tâm là phát sanh một ý nguyện đạt đến giác ngộ để cứu thoát tất cả chúng sanh.
(Xem: 9712)
Khi chưa biết tu, thân ta có khi làm việc thiện lành tốt đẹp, có lúc ta làm việc xấu ác gây nhiều tội lỗi, miệng có khi nói lời ngọt ngào dễ thương, có lúc nói
(Xem: 9359)
Nếu chúng ta phản ứng mạnh mẽ với tiếng ồn, nghĩa là chúng ta dấn thân vào cuộc chiến mà chúng ta không thể nào dành được phần thắng.
(Xem: 10346)
Trong nhiều pháp thoại, Thế Tôn thường sử dụng các hình ảnh trực quan để minh họa cho những giáo huấn của Ngài.
(Xem: 9442)
Nói đến tình thương, theo thế tục, chúng ta liên tưởng đến đối tượng của tình thương với những điều kiện (như một sự trao đổi tương xứng).
(Xem: 10607)
Đạo Phật dứt khoát không bao giờ chấp nhận việc mê tín Thần quyền, nhứt là những vấn đề tin nhảm nhí, theo một niềm tin mù quáng, không được điều động bởi lý trí.
(Xem: 9632)
Theo sự chỉ dạy của Thế Tôn, người Phật tử cũng có quyền làm giàu để nâng cao sự sống ngoài việc lo tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đìnhxã hội.
(Xem: 15402)
Khi đến chùa bạn hãy nhớ những điều dưới đây không được nghĩ tới và cũng không được cầu khẩn mong muốn thành hiện thực nhé, những điều này là không nên.
(Xem: 8519)
Một vị lãnh đạo đất nước muốn giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, có được cơm no áo ấm và sống an vui, hạnh phúc trên tinh thần vô ngã, vị tha phải là người có ...
(Xem: 11138)
Từ bisức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không
(Xem: 9272)
Người ta thường ngạc nhiên khi khám phá ra rằng thiền rất khó hành. Nhìn bề ngoài nó có vẻ là việc đơn giản, chỉ ngồi xuống chiếc gối nhỏ và theo dõi hơi thở.
(Xem: 8553)
Những ý niệm như vô ngại, đồng thời, đồng hiện, sẵn đủ, viên mãn… không chỉ có trong kinh Hoa Nghiêm mà có trong tất cả kinh điển, nhất là Đại thừa.
(Xem: 8791)
Thế giới loài vật cũng có sự sống sinh hoạt song hành với loài người nên cũng bị vô minh chi phối.
(Xem: 14575)
Chùa Khánh Anh - Paris Pháp Quốc
(Xem: 12701)
Tìm hiểu về quá trình tu tập của Sa-môn Cồ-đàm - nhất là khi từ bỏ vị thầy thứ hai (Uất-đầu-lam-phất) cùng hội chúng, Ngài đi đến Khổ hạnh lâm trải qua 6 năm khổ hạnh;
(Xem: 9620)
Có nhiều người thích trang sức bằng những viên ngọc quý. Tuy nhiên, viên ngọc đẹp đẽ, và to lớn nhất, là viên ngọc trong tâm.
(Xem: 9258)
Môi trường sống để tu học rất quan trọng cho tiến trình thành quả của người thực hành, nếu không nhận ra sự khác biệt trên giáo pháp Đức Thế Tôn dạy và...
(Xem: 9862)
Thí dụ về chiếc bè là một trong những ngụ ngôn và ẩn dụ, quen thuộcnổi tiếng nhất của Đức Phật.
(Xem: 14721)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
(Xem: 9092)
Mỗi khi phải đương đầu với nghịch cảnh hoặc các thứ chướng ngại, thì quý vị nên xem đấy như là một món quà thấm đượm từ biĐạo Pháp mang tặng mình,
(Xem: 10521)
Chúng ta ai cũng biết sân hậnđau khổ vì nó áp lực chúng ta phải giải tỏa những mối đe dọa bằng mọi giá.
(Xem: 10477)
Đức Phật thường ví mình như một vị y sĩ, và Đạo Pháp là phương thuốc Ngài dùng để chữa bệnh.
(Xem: 9602)
"Tu là quá trình: quán chiếu nội tâm, làm triệt tiêu bản ngãchuyển hóa nghiệp lực của mình” đây là ba điều kiện tiên quyết, cốt yếu và tinh túy nhất, trong phận sự người tu.
(Xem: 9456)
Họa hay phước không phải do ngày tháng xấu, tốt tạo ra; họa hay phước là do nhân quả mà có
(Xem: 10313)
Tất cả mọi sự sống ở trên đời này từ khổ đau cho đến hạnh phúc của thế gian cũng đều từ cái ta mà ra.
(Xem: 9789)
Không làm điều ác; không chán nản, không bỏ cuộc, kiên trì và nhẫn nại quyết làm xong việc lành mới thôi; chính là hai “tướng mạo” của người trí.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant